Về quê

Một cảnh ở Anaheim, California. (Hình minh họa: Ben Gomez/Unsplash)

Nghe tin bác tôi lìa trần, ba tôi ở Florida tỏ ý muốn về dự lễ tang bác. Ba nói: “Về đi đám tang chị Tư nhơn thể thăm hội thánh luôn. Lâu quá không gặp, không biết mấy người trong hội thánh ra sao. Thôi về quê một chuyến.”

Về quê ở đây không phải là làng Tây Lộc ở Quảng Nam mà là Anaheim của California. Đó là nơi chị em tôi và ba mẹ sống hơn mười năm khi mới đến Mỹ.

Mười năm với những kỷ niệm vui buồn mà đa số là với hội thánh Giám lý Anaheim, nơi gia đình tôi thờ phượng Chúa và sinh hoạt trong những năm đó. Sau đó chị em chúng tôi lần lượt có gia đình và chúng tôi rời quê Anaheim vì công ăn việc làm.

Đất Mỹ chào đón gia đình tôi với cái nắng chói chang của ngày hè Tháng Tám. Gia đình tôi có năm người, ba mẹ, tôi, cô em kế và cậu em trai út. Đến đón gia đình tôi ở phi trường Los Angeles là bác tôi, gia đình anh họ bên ba tôi và một vài người quen biết bên mẹ tôi. Hôm đó còn có Mục Sư Trần Trọng Luật, người quản nhiệm Hội Thánh Anaheim và cũng là người bảo trợ cho gia đình chúng tôi.

Cả gia đình tôi đều bật lên tiếng ngạc nhiên khi nghe bác tôi giới thiệu: “Mục sư trẻ quá!”

Vài xách đồ đạc lỉnh kỉnh được chất lên xe của mục sư, chúng tôi về căn chung cư ông đã mướn sẵn gần nhà thờ. Buổi chiều qua nhà của vợ chồng anh họ cách đó vài căn nhà, ăn tô bún bò Huế đầu tiên trên xứ Mỹ do chị nấu. Căn chung cư của anh chị nhỏ nhưng tô bún của chị thì đầy hương vị như tôi vài lần được ăn ở Tam Kỳ. Ăn xong, chúng tôi ngồi trước sân nhà vợ chồng anh để hóng gió. Thật ngạc nhiên khi thấy 7 giờ tối mà trời vẫn sáng choang.

Chúng tôi nghe một ông anh họ khác sơ lược về công việc ở hãng, cách sinh hoạt hằng ngày và Hội Thánh Anaheim. Một chiếc xe dừng lại bên lề đường. Một cô gái dáng mảnh mai với mắt kiếng đen bước ra, đi về phía chúng tôi. “Ngầu quá!” Em tôi bật miệng.

“Hi! Mấy anh chị mới sang có mệt không?” Lời hỏi thăm thân mật ngược với dáng vẻ bên ngoài. Tôi thầm nhận xét. Anh họ tôi giới thiệu. “Quỳnh, thanh niên trong hội thánh.  Nhà ở bên cạnh. Đàn hay lắm đó.” Chúng tôi cười làm quen. Quỳnh về nhà và anh họ tôi tiếp tục giới thiệu về ban thanh niên trong hội thánh. Nào là mấy chị em nào đó nói tiếng Việt rất “rành” với những từ vựng đặc biệt như “mặc guốc, mang nước bông, rửa gạo, giặt đầu,” nào là mấy anh em to lớn với họ hàng khắp các hội thánh. Rồi bốn chị em cô nào đó thướt tha. Còn chị trưởng ban chạy xe freeway gần một tiếng để đến nhóm mỗi Chúa Nhật. Tôi chẳng thể nào nhớ hết. Anh họ tôi kết thúc, “Tóm lại, thanh niên ở hội thánh đây dễ thương.”

Chúa Nhật đầu tiên nhóm với hội thánh, tôi ngỡ ngàng với những nghi lễ thờ phượng. Sau đó ăn trưa và sinh hoạt buổi chiều với ban thanh niên. Trước khi sang Mỹ, tôi nhận được những lá thư than thở của một cô bạn đi Mỹ trước tôi mấy tháng. Bạn nói rằng ở hội thánh bạn đến, ai cũng bận rộn nên không có cái thân mật như hội thánh của tôi ở Phước Thái, nếu không muốn nói là lạnh lùng. Tôi đọc những lời đó thì cũng chuẩn bị tinh thần để đối phó với hội thánh bên Mỹ nơi gia đình tôi đến sinh hoạt. Nhưng tôi đã phải thay đổi suy nghĩ của mình trong buổi sinh hoạt đầu tiên sau giờ lễ. Chị em vần H thân mật hướng dẫn chị em tôi nhập tiệc với thanh niên. Một anh chàng lớn con lên tiếng: “Cứ tự nhiên nghe. Mạnh dạn lên chớ không mấy cô này ăn hiếp.” “Khỉ mốc, mấy người thì có.” Một cô vóc dáng nhỏ nhắn đáp trả. Anh họ tôi tiến tới, “Đây là em, á quên chị của Loan, Tuyết. Chạy xe lui ngầu lắm!” Một giọng khác thêm vào, “Ở lớp thiếu niên mới lên đó.” Tôi quên mất mình là người mới đến, hoà tiếng cười với các bạn. Tôi có cảm giác như mình đang trở về nhà.

Ba mẹ tôi thì được các ông bà trung niên đón tiếp vui vẻ. Hội Thánh Anaheim lúc bấy giờ 80% là dân HO mới qua từ năm 90 và những năm sau đó. Các ông đa phần đều ở tù cộng sản. Không tù cải tạo thì cũng tù vượt biên. Các ông mỗi lần ngồi lại đều kể chuyện ở tù, hành trình vượt biên tới Mỹ hay chuyện làm giấy tờ xuất cảnh. Còn các bà thì kể chuyện thăm chồng đi tù và những gian khổ cơ cực với chính quyền địa phương khi chồng đi tù. Các bà kết luận, “Mấy ông đi tù cực khổ nhưng mấy bà ở ngoài cũng không sung sướng gì hơn. Nếu không có mấy bà thì mấy ông không sống để mà dắt vợ con qua Mỹ như hôm nay.”

Chuyện xưa đã đời rồi tới chuyện làm thế nào để làm quen với xứ Mỹ. Chỉ nhau vô chương trình này nọ để nhận trợ cấp, xin nhà ở, và kiếm việc làm. Ba mẹ tôi ở tuổi gần 60 nên thật bi quan. “Tiếng anh tiếng em” thì nghe được hết, nhưng… chẳng biết người ta nói gì! Nhà chỉ có tiền mua một cái xe cũ để ba chị em tôi thay nhau lái xe đi làm. Ba mẹ như điếc và què trên xứ cờ hoa như nhiều người hồi đó vẫn nói.

Sau một năm tiện tặn, chúng tôi mua thêm được hai chiếc xe cũ nữa. Tôi nhớ hoài chiếc xe Honda màu xám tro cũ xì bị móp méo tùm lum. Mỗi khi gió Santa Ana thổi, tôi có cảm giác như mình muốn bay tung lên với chiếc xe. Được cái là nó ít tốn xăng. Đổ đầy một thùng xăng có hơn 10 đô mà tôi chạy được hai tuần. Có xe, ba bắt đầu đi làm “UCC.” Mới nghe tưởng như một trường đại học nổi tiếng nào đó của California. Những người như gia đình tôi thường đùa với nhau như vậy. UCC là “ủi cắt chỉ” – một công việc mà rất nhiều người đã làm khi mới tới Mỹ.

Mẹ tôi hay đau ốm nên không xin được việc làm. Thiệt là kỳ lạ. Bảy năm ba tôi đi tù và ba năm ba tôi bị chính quyền địa phương quản chế khắc khe, mẹ tôi chẳng bịnh bao giờ. Dường như mẹ không cho phép mình bị bịnh lúc đó. Khi nhà tôi thư thả ở Việt Nam và lúc sang Mỹ, mẹ bịnh liên miên. Chị em tôi đi làm đi học túi bụi nên cuối cùng phải khuyên mẹ ở nhà lo cơm nước cho ba và các chị em tôi. Nghe có vẻ “sang” nhưng hoàn cảnh thì “sảng” lắm. Cuộc sống của chúng tôi những năm đó rất chật vật. Mỗi tháng tiền thu nhập của cả nhà chỉ vừa đủ trang trải những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Dẫu vậy chúng tôi hy vọng một ngày mai tươi sáng khi chị em tôi xong chuyện học hành.

Nhưng mẹ vẫn ở nhà không yên. Mẹ đào sân cỏ sau nhà trồng rau, đậu, bí, bầu, dưa leo, khổ qua để đỡ tiền chợ cho gia đình. Nói chuyện với các bà trong hội thánh, mẹ tôi khám phá ra một nghề mà chúng tôi không thể nào tưởng tượng ra nổi. Mẹ làm nghề người mẫu! Mới nghe chị em tôi phá ra cười. Cô em tôi đùa, “Hay quá! Ba làm UCC và mẹ già làm người mẫu. Cái ‘đế quốc Mỹ’ thiệt là hay quá xá!”

Theo lời giới thiệu của một bác trong hội thánh, mẹ ghi danh làm người mẫu ở các trường thẩm mỹ cho các sinh viên học nail học tóc dẫn đi làm người mẫu để thi lấy bằng hành nghề. Đi vài lần, mẹ để ý cách các giám khảo chấm thi và cho những thí sinh những lời khuyên hữu ích để đậu kỳ thi thực tập.

Đa số thí sinh mướn mẹ tôi làm người mẫu đều đậu. Tiếng lành đồn ra. Mẹ được nhiều người “mời” đi làm người mẫu trong thời gian các kỳ thi cho phép. Lịch của mẹ kín chỗ. Thế là phải tính toán sao cho có được tối đa các ngày thi vì hình như mỗi người chỉ được làm mẫu mỗi hai tuần. Thí sinh đậu, mẹ nhận tiền vui vẻ. Thí sinh rớt, mẹ buồn khi nhận tiền của họ. Nhiều người khi thi đậu đã rộng rãi cho mẹ thêm tiền gấp đôi số tiền đồng ý trả ban đầu. Những món tiền đó là một phần thu nhập không nhỏ cho gia đình tôi trong những năm tháng mới định cư xứ Mỹ. Những lần đi thực tập cùng với những chuyến xe dài đến trường thi, mẹ nghe những câu chuyện đời của những sinh viên học nail học tóc. Có những chuyện vui và có những chuyện nghe thật đau lòng. Vài người trong số đó vẫn đến nói chuyện với mẹ tôi sau khi đi đậu.

Cô em gái và cậu em trai tôi chọn đi học full-time. Tôi nghĩ mình không theo học nổi nên đi làm full-time và chỉ đi học part-time vào buổi tối. Mỗi cuối tuần, chị em tôi nhóm lại với thanh niên của Hội Thánh Anaheim. Ngoài giờ thờ phượng Chúa với hội thánh, chúng tôi có giờ học Kinh Thánh và sinh hoạt mỗi tối thứ sáu và chiều Chúa Nhật. Chúng tôi được tập hát rất bài bản với ca trưởng Nguyễn Văn Thanh, người viết hoà âm cho rất nhiều bài Thánh ca. Cảm ơn chú nhiều vì nhờ những buổi tập hát đó mà tôi học được một ít nhạc lý. Những giờ học Kinh Thánh tối Thứ Sáu là những lúc chúng tôi kể chuyện vui buồn ở chỗ làm, rồi nên mua xe ở đâu, lớp học nào nên lấy, thầy cô nào nên chọn, ngành nào học ra dễ kiếm việc làm…  Nghe các bạn kể chuyện học hành, rồi thấy có người transfer học lên cao hay là được chọn vào các trường y, dược, tôi thấy vậy nên cũng ráng bò theo. Cảm ơn Chúa cho tôi được sinh hoạt trong một môi trường như vậy cùng với nhiều lời cầu nguyện và khích lệ, tôi cũng lê lết tới nơi mình muốn tới.

Nhờ sinh hoạt với thanh niên tôi học nấu được nhiều món ăn sau mấy lần đứng phụ bếp. Trong đám tụi tôi có những người nấu ăn rất ngon. Đi ăn tiệm một lần là mua đồ về nấu còn ngon hơn ở tiệm. Thế là những bữa ăn trưa sau giờ lễ ngày Chúa Nhật chúng tôi được thưởng thức những món ngon trong đó có những món tôi mới ăn lần đầu. Rồi tôi cũng được/bị mời nấu những bữa trưa như vậy. Nấu hoài thành ra tôi biết nấu một vài món. Đám chúng tôi đa phần là sinh viên nên đứa nào cũng nghèo xơ xác. Chẳng đứa nào có chiếc xe cho ra hồn để đi chơi xa. Chiếc nào cũng thuộc thời “một ngàn chín trăm hồi đó.” Không móp méo thì tay lái cũng loạng quạng. Chiếc thì nổ điếc tai. Chiếc thì mỗi lần chạy nghe kêu lọt cọt leng keng đủ chỗ. Chỉ có cái còi cần kêu thì không kêu. Rồi có chiếc thì thắng kêu ken két. Tụi tôi không lấy đó làm buồn nhưng thường đem ra kể chuyện tếu bởi đứa nào cũng hoàn cảnh giống nhau.

Nhưng tụi tôi cũng muốn đi chơi xa, thế là bày ra đủ cách để gây quỹ. Nào là rửa xe, bán đồ ăn, mở gian hàng trò chơi trong hội chợ Tết cộng đồng. Một cô nhỏ nhất trong đám nói tiếng Việt lọng ngọng vì qua Mỹ lúc nhỏ nhưng cũng chơi với tụi tôi. Em cũng ráng hoà đồng nói tiếng Việt có chêm một vài chữ tiếng Anh làm tụi không nhịn được cười. Có một lần học Kinh Thánh em nói, “Trái ớt thật nhiều tội lỗi…” Một đứa cắt ngang, “Trái ớt là trái gì mà tội lỗi vậy?” Em lúng túng đưa hai tay ra dấu làm vòng tròn, chỉ xuống đất, chỉ chung quanh và nói, “Trái ớt mà chúng ta đang sống… đang xít on ít (sit on it).” Một đứa phá ra cười, “Ớt là trái đất đó hả?” Em nói, “earth” mà chúng tôi nghe ra “ớt”. Chúng tôi bò ra mà cười.

Vì em học ở Mỹ từ nhỏ nên có nhiều sáng kiến gây quỹ rất hay. Một hôm em bảo tụi tôi ghi danh đi vỗ tay lấy tiền. Có người hỏi, “Thiệt không đó? Hay là giống như chuyện trái ớt hôm trước.” Vậy mà có thiệt. Chúng tôi tập trung ở nhà thờ lúc 2 giờ chiều. 15 đứa chất nhau vô ba chiếc xe khá nhất trong đám, chạy lên phim trường ở Burbank. Sau mấy giờ xếp hàng đi lòng vòng trong mấy toà nhà cao lớn, chúng tôi  được làm khán giả cho show “Wheel of Fortune.” Một đứa ra giọng hiểu biết nói, “Cô đứng làm kiểng chỉ vô mấy ô chữ đó lương 1 triệu đô một năm.” Một đứa hỏi, “Học cái gì để làm được cái job đó?” Một đứa khác đáp,“Da vàng như tụi mình không bao giờ được đâu mà mơ.” Tụi tôi cười rúc rích.

Người ta chia chúng tôi ngồi xen kẽ với các nhóm khác. Cái phòng thu nhỏ hơn nhiều so với cảnh chiếu trên TV. Trên sân khấu, người điều khiển chương trình là ông Pat Sajak và cô Vanna White điệu đàng bước ra sân khấu giống như thấy trên TV xem ở nhà. Mỗi lần mấy cái bảng trước mặt chúng tôi ra dấu vỗ tay thì chúng tôi vỗ tay. Thỉnh thoảng mấy cái camera quét qua một cái, chúng tôi cười hớn hở để được thấy mình đẹp. Về nhà tối nào cũng ráng coi trên TV để xem có thấy mình là khán giả trên một show của Mỹ để khoe với người ta! Dường như cái đó thú vị hơn là việc người ta có trả tiền cho chúng tôi đi vỗ tay hay không.

Mấy tháng sau, chúng tôi nhận được một cái check tới mấy trăm đồng. Cộng với tiền gây quỹ mấy lần trước đủ tiền để mướn xe và mướn một ngôi nhà sang trọng trên núi để tụi tôi đi chơi. Mỗi đứa chung thêm vài chục đồng để đi chợ và thay phiên nhau nấu ăn mấy ngày đó. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác thật sang trọng khi lần đầu tiên tôi được ngắm cảnh ở Big Bear. Cùng với mấy bạn thức dậy sớm, bước xuống cầu thang của ngôi nhà ba tầng với mái nhà nhọn như ở châu Âu để ngắm bình minh. Chúng tôi đi dạo vòng quanh bờ hồ còn đầy thông thuở đó. Mặt nước hồ xanh, gió thổi hơi se se lạnh. Những con đường nhỏ còn ngủ yên trong sáng sớm. Tôi cảm thấy mình thật giàu có giống như những cảnh trong phim. Mỗi năm chúng tôi làm một chuyến đi như vậy. Big Bear, Lake Arrowhead, Bass Lake, Yosemite, và có năm còn lái đi xem Grand Canyon nữa.

Big Bear: (Hình minh họa: Dane Deaner/Unsplash)

Nhớ lần đi Yosemite lái xe trong đêm nên đi lạc. Mệt quá chúng tôi tấp đại vô lề, mỗi đứa mỗi kiểu, ngủ gật ngủ gà trên xe. Mới mờ mờ sáng có người nói, “Hình như có nước chảy.” Tất cả đều choàng dậy nhìn ra ngoài. Cảnh rừng ban mai đẹp khôn tả. Thế là đứa nào cũng để nguyên cái mặt ke, đưa tay lên vuốt vuốt tóc, rồi vội vàng xuống suối đứng ngồi đủ kiểu chụp cảnh bình minh trong rừng đẹp mơ màng.

Mỗi chuyến đi có những kỷ niệm khác nhau nhưng vui không tưởng.  Đi về đứa nào cũng mau chóng đi tiệm rửa hình để thứ sáu xúm lại đổ hình ra xem.  Ô a tán thưởng cảnh đẹp hay là cười vang với những tấm hình ngộ nghĩnh.

Chơi cả đám đông vui nhưng tôi cũng những giờ tâm sự riêng rẻ với một vài người trong nhóm. Tôi chơi thân với Linh. Có những buổi học Kinh Thánh vào Thứ Sáu, khi mọi người đã về, hai đứa còn ngồi trong xe nói chuyện đủ thứ tới khuya. Rồi chúng tôi lập gia đình. Có vài cặp trong nhóm cưới nhau. Có anh rước được nàng về nhập bọn với chúng tôi. Có cô kéo được chàng về làm rễ và có người đi xa, trong đó có Linh và tôi. Linh bỏ cuộc chơi theo chàng về tận San Jose. Đám chúng tôi mười mấy đứa kéo lên dự lễ tiễn Linh lên xe hoa, làm cô dâu cảm động khóc sụt sùi trong ngày cưới. Tôi bao chót nên lúc tôi làm đám cưới mỗi bạn trở thành gia đình hai hay ba người. Chàng của tôi cũng thuộc loại ế nên nhiều người trong hội thánh của chàng ráng đi dự lễ cưới để xem mặt cô dâu. Nhà thờ đầy người trong ngày hôn lễ làm ba mẹ hai bên gia đình rất vui.

Rồi cả đám kẻ trước người sau sinh con và lại bày nhau cách nuôi con nhỏ dạy con lớn. Í ơi gọi điện thoại hỏi thăm mua núm vú kiểu chi, tã loại nào, sữa hiệu gì để nuôi con. Trưởng tộc là anh chị Lưu – Ngoan mỗi năm mở cửa nhà mấy lần cho tụi tôi dắt bầu đoàn phu thê tử tới quậy. Lúc nào gặp nhau cũng có chuyện để tán và không thiếu những tiếng cười vang.

Không kể khổ về chuyện dạy con cái thì cũng chuyện sửa nhà cửa, cây cối vườn tược. Và dĩ nhiên là thưởng thức những món ngon không nhà hàng nào sánh nổi do những đầu bếp lừng lẫy của đám chúng tôi nấu nướng.

Hội Thánh Anaheim giống như bà con bên ngoại của các con tôi. Lúc còn nhỏ, mỗi lần nghe được đi về Anaheim là chúng nó háo hức. Khi Covid đến, chúng tôi gặp nhau thường hơn qua những buổi sinh hoạt trên Zoom. Mỗi tuần gặp nhau trên màn hình, chúng tôi cập nhật tin tức của mỗi gia đình và học Kinh Thánh. Rồi cầu nguyện xin Chúa giữ gìn từng gia đình. Xin Chúa chữa lành cho những người bị nhiễm Covid. Ghi danh đem đồ ăn tới cho những người bị bịnh. Các cháu nhỏ thì nhào vô chơi game online. Dường như dịch bịnh trên toàn thế giới chẳng ảnh hưởng gì đến thú chơi game của tụi nó.

Năm 2021, dịch bệnh bớt đi. Chúng tôi rủ nhau đi chơi Mammoth. Ở nhà một năm tù túng nên nhà nào cũng muốn sổ lồng đi chơi. Chẳng có cái nhà nghỉ nào đủ lớn để chứa hết tụi tôi vì “chúng nó đông hơn chúng mình.” Chúng nó là con cái của chúng mình và nhiều đứa con đã học xong trung học. Thế là ráng tìm mướn những căn nhà gần nhau để ngắm cảnh vui chơi mấy ngày thỏa thích. Thức ăn thì khỏi phải nói nữa. Rất nhiều món và món nào cũng ngon tuyệt vời. Các con tôi đến bây giờ vẫn còn nhắc lại lần đi chơi ấy, nhất là chuyện thi ăn dưa hấu với hai tay bị trói đằng sau. Chẳng phải đám thanh niên già của tụi tôi ngày xưa được hồi xuân mà đám trẻ cũng vui tưng bừng.

Mấy năm nay nhiều cháu đi học xa, những buổi gặp nhau thường chỉ có cha mẹ là đám chúng tôi ngày xưa đi với vợ, chồng. Mỗi lần gặp nhau như vậy tôi cảm thấy mình như về quê và ba tôi cũng thấy vậy.

Tôi hỏi ba, “Ba về thăm Hội Thánh Anaheim có vui không?” “Ô chu! Vui quá! Người nào cũng tay bắt mặt mừng ‘Lâu quá! Tưởng không gặp lại ông.’ Vui không tả mi hỉ.  Tiếc là ít giờ quá nên không nói chuyện được nhiều.” Tôi nói, “Vậy hôm nào ba về ở lại lâu lâu hơn đi.” Ba trả lời, “Nếu Chúa cho khoẻ mạnh sẽ về thăm quê lần nữa.”

Hội Thánh Giám Lý Anaheim sẽ có lễ kỷ niệm 45 năm thành lập vào Chúa Nhật ngày 27 Tháng Bảy năm 2025.  Nhân dịp này tôi xin gởi lời cảm ơn của ba mẹ và chị em tôi đến Mục Sư Trần Trọng Luật và toàn thể hội thánh. Ông bà Mục Sư Trần Trọng Luật và Hội Thánh Anaheim đã hết lòng giúp đỡ gia đình tôi và rất nhiều gia đình khác khi mới đến Mỹ. Mục sư đã giúp mướn những căn nhà để ở lúc chúng tôi mới đến.  Mục sư cũng đã chúc phước cho những “nhà biết đi”, tức làm lễ cưới cho hầu hết các thành viên trong ban thanh niên của chúng tôi ngày xưa. Cảm ơn rất nhiều về sự tận tụy của ông bà chăm lo cho con dân Chúa trong những năm quản nhiệm hội thánh Anaheim. Nguyện xin Chúa ban phước dư dật trên những ngày tháng hưu hạ của Mục Sư Trần Trọng Luật và bà!

(July 2025)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Nigeria, có chuyện chi?
Vào ngày lễ Các Thánh năm nay, tín đồ Thiên Chúa giáo dùng thời giờ để cầu nguyện cho người chết, mong họ sớm được đến thiên đàng. Riêng ông…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: