Thi tú kép xong, bọn em hồi hộp chờ kết quả.
Làm sao em thở nổi? Cứ ra vào thơ thẩn, không làm gì được hết. Định ôn bài lại phòng hờ thi khoá hai, nhưng chữ nhét không vô. Cầm quyển truyện “Tây-Tạng huyền bí và đau khổ” định đọc, nhưng em không thấy thích thú gì cả. Em lại loay hoay may quần áo cho bọn nhóc, nhưng cất tay không lên.
Chao ơi! em làm sao thế này? Lòng em buồn như bầu trời xám sắp mưa ngoài kia. Em cứ ra vào ngẩn ngơ. Buổi tối em ngồi ghế đu ngoài sân, dưới gốc cây nhãn nhìn muôn vì sao mà bâng khuâng không biết tương lai mình về đâu.
Bạn em cũng thế, chúng không biết làm gì ngoài đi thăm nhau để bù khú về chuyện thi cử vừa rồi. Đứa nào cũng hy vọng tràn trề, nhưng rồi lại lo âu như em. Những ngày ấy em như ngồi trên đống lửa, bồn chồn, lo lắng đủ cả. Trước hôm có kết quả Trọng đến nhà rủ em lên Thủ Đức xem bói cho bớt lo,nó lại hứa nếu đỗ sẽ khao em chầu Mỹ Vị Mỳ Gia ở Đakao nữa chứ. Em không tin mấy chuyện bói toán, chỉ tin chính vào bản thân mình, nhưng cũng chìu nó mà đi. Cô bói này rất nổi tiếng, bảo nó sẽ đậu. Nhưng hôm sau nghe kết quả, nó lại “out.” Thật là thê thảm.
Ngày ấy lớp của em và lớp Trọng thi đỗ rất nhiều, tại sao lại sót một mình tên nó? Lúc nghe đọc số báo danh và tên em, tim em như ngừng đập. Mặc dù thi xong làm bài được, em đã tiên đoán như vậy, nhưng vẫn lo âu. Giờ thì em với nỗi vui mừng chảy ùa giữa đám thí sinh vui buồn ngẩn ngơ, lo âu chờ đợi đọc tên mình. Người ta bảo năm nay đậu nhiều, mà hai cô bạn của em học rất khá lại “out.” Khóc oà. Em thấy thương bạn quá, nhưng không nói được lời gì cả, đành im lặng.
Thế rồi anh chị làm tiệc khao cho em. Hôm ấy anh bạn em bận đi công tác ở Hương Điền (Quảng-Trị) của trường anh ấy và trường Chiến Tranh Chính Trị, em chỉ mời Trọng dù biết nó đang buồn hỏng thi, để nó chung vui chút nào, hơn là ngồi nhà.. khóc. Cô nàng cố gắng đến. Hôm ấy có anh bạn của chị Nguyệt, và anh Triết, bạn của anh chị hai đến dự.
Câu chuyện hôm ấy bọn em nói về tương lai, vì điều em quan tâm nhất là: Giàu không phải là cứu cánh của hạnh phúc.
Ngày ấy, em có tuổi trẻ với lý tưởng sáng ngời trước mắt, chưa lần vấp ngã, chưa lần khổ đau tình yêu nên phương châm của em là: Không cần chọn người hôn phối giàu, không cần họ có địa vị cao và không lấy người không yêu, quan trọng là tự lực cánh sinh, không ỷ vào ai. Nhưng rồi em đúng hay sai?
***
Rồi Trọng cũng đỗ khoá hai, nụ cười rạng rỡ. Nó rủ em đến nhà Phượng đòi bánh trung thu, vì năm nào nhà Phượng cũng làm và cho bọn em xơi bánh dẻo rất ngon. Năm nay Trọng không khao như năm trước, nó xìu rồi. Năm rồi chị em nó cùng thi đỗ, nên nhà Trọng tổ chức vui tưng bừng, mời nhóm bọn em và bạn chị Sang nó kéo đến chật cả nhà, vì anh chị nó nuôi một chuồng chim cút, nên cả bọn tha hồ ăn một bữa chim cút quay ngon lành, cùng các món khác khá linh đình.
Sau đó bọn em còn chung tiền nhau ăn khao nhà của Phòng ở Tân Định, cũng thật vui vì rủ nhiều bạn trong lớp đến. Trong quyển lưu bút bé xíu của em, Thanh Hằng viết thật dễ thương, trong sáng.
Em nhớ nhất là hôm chị Nữ khao em chầu kem ở tiệm Caravelle. Chị và cậu em họ “bé” Sáu đến nhà em, sau cơn mưa dài, trời chiều lành lạnh, nhàn nhạt buồn. Chị Nữ học trên em một lớp. Chị có nhiều nét độc đáo, dễ thương. Sáu học trường Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định, vừa mới đỗ tú 1, và rất lễ phép đến ngoan. Sáu chơi nhạc trong ban nhạc trường.
Ba người gởi xe ở đường Tự Do rồi chui vào tiệm Caravelle. Không khí im lắng, lạnh và êm đềm. Sáu gọi một ly chocolate sữa hột gà, còn em và chị Nữ gọi kem đặc biệt ba màu caravelle thật đầy, kèm thêm chiếc bánh kẹp ngon tuyệt cú mèo. Ngồi ăn mà chị mãi nhắc đến anh Bửu, người yêu của chị. Anh ấy đang du học bên Mỹ.
Chị kể, ngày trước anh Bửu hay đưa chị vào đây, ngồi ở góc bàn kia. Anh gọi cho chị ly kem như thế này, mà chị đi chung một đám bạn đông lắm, vui lắm. Chiếc nhẫn này của anh ấy cho chị đó.
Chị buồn buồn kể thật nhiều, giọng đầy nước mắt. Em xúc động, thương chị chung thủy chờ anh… nhưng người đi, biết có nhớ người ở lại hay không? Sau đó chị ra trường, em ít gặp chị. Có lần em đi chợ Bà Chiểu gần nhà chị, em mừng vì thoáng thấy chị, vẫn dáng buồn buồn và có vẻ ngẩn ngơ hơn lúc chị còn đi học, khiến tim em thắt lại: Sao chị thế này, anh Bửu chưa về ư? anh quên chị thật rồi. Nghĩ vậy, em không dám đến gặp chị, sợ chị lại khóc.
***
Hơn tháng sau anh bạn em đi công tác cứu trợ đồng bào chiến nạn ở Hương Điền về, khao em chầu kem, cũng ở Caravelle nữa. Em đi cùng chị Nguyệt. Chị ấy trong tunis hồng, đen và em với bộ vàng, trắng, còn anh chỉ có bộ treillis quân y mới toanh. Em và chị Nguyệt cũng gọi kem ba màu.
Anh kể về chuyện đi cứu trợ ấy, nghe buồn mà thương dân quê mình quá. Dân chúng bị thương và chết nhiều. Các sinh viên phải làm việc suốt ngày như băng bó vết thương, cho thuốc và tải thương rất nặng nhọc. Những chiếc băng ca ban ngày khiêng xác chết, ban đêm các anh ngủ trên đó. Thư về cho em, Hiền gởi kèm theo nhành lúa non hái trên cánh đồng quê, em vẫn còn giữ gìn nhánh lúa non đó, của thuở ban đầu ngây thơ, đẹp làm sao!
Về đây phố thị vẫn yên bình, thiên hạ vẫn vui chơi, dân mình đã quen với chiến tranh từ bao ngàn năm rồi. Và cái chết của người lính hay dân chúng ở vùng giao tranh thì đã quen rồi, có buồn thương như em, cũng không giúp được gì..
Nên buồn cười, anh ta bày trò xem bói khoa học, về tên của em và chị Nguyệt vì hai chị em đều có hai tên. Chắc thầy bói đã có cúng tổ nên chị Nguyệt tin như thần. Sau đó đi chụp ảnh bên cạnh công trường Nguyễn Huệ có vòi phun nước rất đẹp. Đi bên cạnh bộ quân phục của anh, như rằng em cũng ngầm hãnh diện vì anh đã xoa dịu phần nào nỗi đau của quê hương khói lửa này. Trời bắt đầu hoàng hôn, anh gọi xích lô đưa hai chị em về vì biết ba me đang lo lắng.
Ngày đó muốn hình màu đẹp, phải gửi ra ngoại quốc rửa và em đã có những tấm ảnh để đời, bây giờ còn treo trên tường nhà sau hơn 50 năm dài.
***
Những ngày đó bọn em đi tìm hết các trường đại học như Sư Phạm, Khoa Học, Dược Khoa, Văn Khoa… đến mỏi cả chân. Nhưng khi là sinh viên, em mới biết không còn lý tưởng hấp dẫn như lúc trước đã nghĩ: Cái học của nước mình còn nhiều lạc hậu quá, nên sinh viên học rất vất vả.
Trừ đại học Dược Y Nha khoa là khang trang, sạch đẹp, còn lại đa số các trường khác rất cũ kỹ, sân ngập cỏ tranh, phòng ốc nhện giăng, sơn tróc tường loang lỡ trông thật buồn bã. Cả miền Nam, chính phủ đã cố gắng đào tạo những nhân tài từ những ngôi trường như thế,vì ngân sách quốc phòng phần nhiều dồn vào chiến tranh, không còn đến hậu phương. Thấy thương các sinh viên nghèo nước mình ngày đó vô cùng, đa số đều chấp nhận hoàn cảnh đất nước và họ học rất giỏi (một phần là để không bị động viên ra chiến trường) với lý tưởng rất trong sáng.
Hè năm ấy, cô Lệ Tuyết dạy việt văn cũng viết cho em, rằng: “Em sẽ rời T-V., không còn là nữ sinh, nhưng có gì bắt buộc rằng đời sống sinh viên không đáng yêu bằng đời sống nữ sinh đâu. Đời lúc nào, ở đâu và bao giờ cũng có thể thắm tươi hết, nếu hồn chúng ta tươi sáng.”
Lời cô viết vẫn còn giá trị đến bây giờ, mỗi khi đọc lại em càng thấm thía, thương cô vô cùng.
Có những buổi chiều bạn bè đến chơi thật vui. Ngoài chuyện chọn phân khoa ra, bọn em cũng có đứa khuyên nên nộp đơn thi vào Bộ Giáo Dục để vừa làm vừa học là tiện nhất, không để bố mẹ nuôi hoài nữa. Điều này em thấy có lý, vì ba em cũng sắp về hưu rồi. Nhưng đi làm… chợt dưng em thấy bâng khuâng, một nỗi lo lắng chạy dài trong đầu. Em sắp bước xuống cuộc đời đó ư? em sắp làm người lớn đó hở? Mi ơi! Mi không còn đùa nghịch nữa, mà phải ăn nói đi đứng chững chạc, để làm người lớn với người ta chứ! Chợt dưng em ghét xã hội người lớn, như những gì chị Hai và chị họ em đã nói hôm nào: “Người lớn là tham nhũng, là đi cửa hậu, là rỗng tuếch…”
Ôi, em không muốn bước vào xã hội đó, xã hội xám không còn màu hồng của bọn em mà em thì vụng dạy quá đỗi, biết đâu mà ngờ!
Đôi khi nhìn xã hội qua các sách báo, em lại băn khoăn: “Cuộc đời là cái gì? có phải học nhiều, biết nhiều để khổ nhiều không? Tại sao học sinh lại nổi loạn? có phải vì xã hội đã có nhiều bùn đen và có rất ít người trong sạch để xây dựng tốt lại?”
Em chợt so sánh ngay trong phạm vi gia đình, cũng là một xã hội nhỏ bé, gồm những hữu thể có những cá tính khác biệt nhau, em thấy bực bội những khi chị em không biết xử sự cho ổn thỏa. Con người vốn ích kỷ và cầu lợi. A, em biết rồi, ngay chính trong nhà còn như vậy, thì hỏi chi xã hội xô bồ ngoài kia.
Xã hội mình có nhiều đổ nát, nhiều thành kiến. Và con người đã chán nản, đã thụ động, sẵn sàng ngờ vực, thù hằn dù với đối tượng tốt. Họ đã quy nạp và phóng đại. Họ đã lười suy nghĩ để thành kiến, từ những việc xảy ra làm kinh nghiệm, họ đã để thấm nhuần vào tim óc, và sẵn sàng phê phán vô ý thức cho hậu quả, chỉ vì cùng nguyên nhân câu chuyện xảy ra, cùng có một điều kiện.
Thế nên, học ở trường em chỉ thấy lý thuyết rất hay, nhưng khi vào đời là cả một vấn đề may rủi hay sao? Cứ nghĩ suy lung tung rồi em buồn lo vớ vẩn, nếu không có bạn rủ đi ăn khao nhà nó, thì em sẽ chết mất vì các tư tưởng không muốn “nhập thế” này.
***
Buổi tiệc trà ăn khao nhà Tố Châu mời chị Nguyệt và em thật vui. Châu và Hoàn khao chung, nên mời khá đông bạn bè. Nhìn ổ bánh “kem” chị Tố Liên làm to và cao mấy từng có tên hai đứa nó, mà phát thèm. Buổi tiệc linh động nhờ những trò chơi vui nhộn của các bạn hướng đạo Đà Lạt.
Châu sắp chỗ em ngồi cạnh anh bồ của Hoàn và đối diện bên đầu bàn kia là Châu và Hoàn. Các trò chơi làm bọn em cười muốn nứt bụng. Hoàn bắt em và anh bồ nó phải nhắm mắt, đút bánh kem cho nhau ăn. Trời ơi, em sợ bị bánh nhép trên mặt, trên tóc là chít, tim em cứ đập thình thình. Lúc đếm 1, 2, 3 xong thì em được cho ăn rất đẹp, còn anh ấy bị crème loe ra miệng ra mặt, khiến cả bàn tiệc 24 người ôm bụng cười lăn…
Đến màn đơn ca, hòa nhạc, các bạn Châu lại đề nghị em hát. Em ngượng quá, nhưng biết làm sao. Thế là em phải hát, hát và nghe mình hát, em hát như khóc theo từng lời nhạc, nhỏ nhẹ, xót xa làm cả bàn nghe lặng lẽ. Từng lời em ca cao vút, lạ hoắc, mút mù, như chưa bao giờ em hát hay như vậy.
Có hôm nhỏ Phượng bò đến, rủ đi bơi. Em và nó là hai đứa mê bơi nhất, có cả thẻ hội viên của câu lạc bộ hồ tắm Lido, dành cho sỹ quan, nhưng anh Hai làm thẻ cho em, còn Phượng thì nhờ chú nó. Nhà Phượng có ông bà cô chú ở chung một nhà rộng lớn, rất hạnh phúc. Nhớ năm học đệ ngũ, sở Thanh Niên Đô Thành trợ cấp cho hai trường Trưng Vương và Gia Long học bơi, gọi là lớp bơi lội Mầm Non. Em rủ Phượng ghi danh, bọn em học tại hồ bơi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần trường, thầy Dõng dạy. Nhưng học được gần một năm,vì số học sinh trường em tham gia ít quá, nên phải học chung với trường Gia Long, tại hồ bơi của họ, nên nhóm T-V. dần dần nghỉ luôn.
***
Lại chuyện chọn trường. Một hôm bỗng xuất hiện ba chàng “ngự lâm pháo thủ” trước cổng nhà, em cứ tròn mắt không biết là ai. Sau đó em mới nhớ là anh Nghĩa, em của chị Dung, bạn dạy cùng trường với chị hai của em, đã gặp hôm dự tiệc cưới của chị Dung, từ hai năm trước.
Hôm ấy, tiệc đám cưới chị Dung thật vui. Trong nhóm chỉ có em và anh Nghĩa là trẻ trung nhộn nhịp nhất. Hai đứa ngại ngùng không dám nói chuyện gì cả, chỉ lo service nước cho khách, nên phải chờ tàn tiệc mới được ăn chung với họ hàng, nên đứa nào cũng đói meo. Thế nên em rủ đám con nít cháu chị Dung ăn vụng trước. Bất ngờ anh Nghĩa lại lò mò đến, thấy đám này hỷ hả ăn sung sướng quá, anh ta cũng nhập bọn nốt,vui ơi là vui.
Bây giờ nghe em đang chọn phân khoa, anh đi với hai anh bạn đến nhà em, xung phong hướng dẫn tận tình vì các chàng đã ra lò rồi. Anh ấy đang dạy toán đệ nhị cấp, chả biết chán chê thế nào mà khuyên em nên chọn dược hay ngân hàng là tốt nhất. Một chàng đang làm giảng nghiệm viên cho đại học Khoa Học thì rất thoải mái vì thấy sinh viên xem anh như bạn thôi. Còn chàng trung úy kia kể chuyện về lính Lôi Hổ oai hùng, chỉ thích các cô học Luật, chả thế mà trường Luật có vài bản nhạc thơ mộng vô cùng đó chăng? Buồn cười lúc về ba chàng cứ giành nhau đem đơn thi đại học cho em.
Thế rồi, em cũng thi vào Dược Khoa, chỉ thi thử thôi vì em biết mình khó qua khỏi toán lý hoá. Và đúng như vậy. Hôm đầu làm bài được hết cả, hôm sau môn lý hóa làm nửa chừng, biết không qua khỏi, em bỏ ra về. Đứa ngồi cạnh xin bài làm đó, em cho nó. Ra về, em thấy mình nhẹ nhàng, không vướng bận chi nữa vì cổng trường Văn-khoa đang chào đón em rồi.
Thật đúng như lời ông giáo sư em gặp ở tiệm ảnh Duy Hy, Đakao đã nói với em: “Văn khoa tuy là trường “chó ỉa” đấy nhưng cô cứ lấy chứng chỉ rồi đi dạy khế ước là tốt nhất, không cần thi vào Sư-phạm, cực lắm.”
***
Nhưng từ ngày ấy, bọn em chưa đứa nào có ý tưởng xây dựng lứa đôi tốt đẹp. Lúc ấy ở nhà thờ Ba Chuông, có sư huynh Mai Tâm giảng dạy lớp “dự bị hôn nhân.” Đây là một luồng gió mới thổi vào nền giáo dục từ chương, tù hãm vì bao năm chiến tranh chưa cải tổ lại được. Nhưng lớp chỉ như đáp ứng lại trào lưu xã hội thôi, không nằm trong học đường, nên số học viên rất đông. Em không có giờ đến nghe, vì học mà không hành cũng thành vô dụng. Em nghĩ vấn nạn lớn nhất là: Hôn nhân dễ thành ngục tù, gông cùm, xiềng xích trói buộc nhau. Họ làm khổ nhau hơn là đem hạnh phúc cho nhau như em đã nghe và đã thấy ở các người lớn.
Bạn em cũng đồng ý với em và sẽ học kinh nghiệm của các anh chị mình. Nhưng khó lắm, vào đời mới biết. Em suy tư rất nhiều để tìm cho mình con đường sáng, rất “cách mạng,” nghĩa là: Hãy cho chàng được tự do thở khí trong lành để chàng phát triển hết tài năng. Em không thay đổi chàng theo ý mình, vì chàng sẽ thành loại “zombi” mà thôi. Hạnh phúc con người là sự tự do. Điều này chỉ có sự hiểu biết và lòng yêu thương vô bờ mới làm được việc ấy.
Nhưng lại có lúc em chống đối lại quan niệm hẹp hòi về thành kiến xã hội, phụ nữ phải lập gia đình, phải có con trai nối dõi cho nhà chồng, phải thế này thế kia. Tại sao mình phải lệ thuộc vào giáo điều của Khổng Tử xưa rích ấy. Vì người phụ nữ vẫn thành công trên đường đời không cần có đàn ông, nhưng người đàn ông thành công luôn luôn có bóng phụ nữ bên cạnh.
Phải thế không?
Em đã sống theo lý tưởng về hạnh phúc gia đình mà em đã nghĩ. Nhưng ngày ấy em quá ngây thơ, không biết rằng lý tưởng ấy chỉ có hạnh phúc với người phối ngẫu có cùng chí hướng với mình, em nào biết cuộc đời thường đi ngược chiều hơn là đồng chiều với mình. Thế nên, nào ai thoát khỏi dòng nghiệp lực của đời mình. Mấy ai biết mà ngờ.




























