Hỏa hồng Nhựt Tảo

Mô hình mô phỏng lại trận Nhật Tảo (1861) nhân lễ kỷ niệm 150 năm ngày mất của anh hùng Nguyễn Trung Trực tại tỉnh Long An năm 2018. (Hình minh họa: Laoodongcongdoan.vn)

“Hỏa hồng Nhựt Tảo” là địa danh mở đầu trong hai câu thơ mà danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt viết để ca tụng Nguyễn Trung Trực đốt phá tàu chiến L’Espérance (Hy vọng) của Pháp trên dòng sông Nhựt Tảo năm 1861: “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa/Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỹ thần,” được Thái Bạch dịch ra như sau: “Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất/Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỹ thần.” Hai câu thơ, hai địa danh lừng lẫy những chiến công của Quản Lịch, tức Nguyễn Trung Trực, một trong những anh hùng lịch sử chống Pháp của dân tộc Việt.

***

Nhựt Tảo hay còn gọi là vàm Nhựt Tảo là một dòng sông nhỏ chảy qua huyện Tân Trụ tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh), nơi tiếp giáp ở cuối dòng sông Vàm Cỏ Đông, gọi là vàm Nhựt Tảo, dòng sông nơi đây vốn hiền hòa, nước trong xanh, phẳng lặng với hai bờ rợp bóng dừa nước, bần và sú vẹt, hiện nay đã có một cây cầu treo, bắt qua sông Nhựt Tảo, nối liền hai xã An Nhựt Tân và Bình Trịnh Đông. Gần khu vực vàm sông là một khu chợ cổ lâu đời, nơi lưu giữ nét văn hóa đặc trưng của người dân miền Tây Nam bộ.

Cũng tại nơi đây, du khách đến thăm viếng, có thể hành hương đến Ấp 2 xã An Nhựt Tân, để chiêm ngưỡng và thắp hương ở đền thờ Nguyễn Trung Trực, đây là một quần thể khu di tích vàm Nhựt Tảo và đền thờ Nguyễn Trung Trực được khởi công trùng tu từ năm 2003 trên một khu đất rộng hơn 6 ha, và khánh thành vào tối ngày 14 Tháng Mười năm 2010, là niềm tự hào của người dân ấp 2 và tỉnh Long An lúc bấy giờ. Điều đặc biệt, là tại khu trưng bày, du khách thập phương sẽ được chứng kiến mô hình chiến hạm L’Espérance (mô phỏng đúng theo xác tàu được trục vớt từ năm 1980) của Pháp bề thế so với những chiếc thuyền, ghe bằng gỗ hoặc đan bằng tre nhỏ bé, khiêm tốn của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, đúng với ca dao xưa của người Việt thường nói: “Nực cười châu chấu đá xe/Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”…

***

Nhắc đến vàm Nhựt Tảo và Nguyễn Trung Trực, không thể không nhắc đến Kiên Giang, Rạch Giá, nơi ông được triều đình nhà Nguyễn phong làm “Hà Tiên thành thủ úy” vào đầu năm 1867, chưa kịp đến nhậm chức “ Trấn thủ thành Hà Tiên” thì Hà Tiên đã bị rơi vào tay quân Pháp, ông cãi lệnh vua, không rút quân về ra Bình Thuận mà đem binh về lập mật khu ở tả ngạn Sân Chim ( thuộc sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang), để chống lại quân Pháp, tại đây ông chính thức đổi tên là Nguyễn Trung Trực và đã gây cho quân Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Thực dân Pháp tập trung lực lượng để phản công, ông lại rút về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu ở Cửa Cạn, nhằm tìm cách đánh Pháp lâu dài.

Theo sử sách, thì: “Sau những chiến công vang dội của Nguyễn Trung Trực, giặc Pháp thất điên bát đảo, điên cuồng truy sát ông và nghĩa quân. Chúng tàn sát 700 người dân Rạch Giá để trả thù trận tấn công đồn đó. Các tên Việt gian Tấn, Lộc, Phương tìm đủ mọi cách bắt ông. Chúng treo giải thưởng 500 đồng và quan chức cho ai bắt được ông hoặc dâng thủ cấp. Độc ác hơn, chúng bắt mẹ ông Nguyễn, đồng bào và trẻ con mà mỗi ngày chúng đem bắn mấy người, bắn cho đến khi nào Nguyễn Trung Trực ra hàng mới thôi.

Trong lúc này, vợ ông bị bệnh hậu sản qua đời. Chôn cất vợ xong, lúc đầu nhân dân còn cho con ông bú thép, sau giặc Pháp khủng bố, họ bỏ chạy vào rừng. Đứa bé chưa đầy tháng tuổi, không sữa nên đã chết. Trong phút cuối cùng nơi rừng sâu, tay ôm xác con, mẹ bị chúng bắt, nhân dân thì bị tra khảo tàn sát, nghĩa quân đang bị núng thế, thuốc súng không còn, thế giặc lại mạnh; ông quyết định chọn lấy sự hi sinh nộp mình cho giặc vào ngày 19 Tháng Chín năm 1868…”

Để mưu chuộc ông làm tay sai, quân Pháp giả vờ đối xử tử tế với Nguyễn Trung Trực, khuyên ông cộng tác với giặc, nhưng câu nói khí khái, can trường của ông: “Thưa Pháp soái, chừng nào ngài cho trừ hết cỏ trên mặt đất, thì mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này!”

Biết không thuyết phục được ông, giặc Pháp đem ông ra xử bắn ở chợ Rạch Giá, Kiên Giang, vào sáng ngày 27 Tháng Mười năm 1868. Lần cuối ở pháp trường ông vẫn nhắc lại câu nói làm nức lòng người dân yêu nước và lưu danh kim cổ: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây.”

Sau khi ông mất, nhân dân Rạch Giá đã bí mật chôn cất ông và thờ ông trong Đền thờ Nam Hải Đại tướng quân (Đền thờ cá Voi hay cá Ông), sau này được trùng tu, sửa chữa và trở thành Đền thờ Nguyễn Trung Trực thuộc phường Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, và trở thành một địa danh nổi tiếng, mỗi khi du khách có dịp về Rạch Giá, ghé thăm viếng và dâng hương.

Ngoài hai đền thờ ở Nhựt Tảo, Kiên Giang, uy linh Nguyễn Trung Trực còn được dân Phú Quốc ngưỡng mộ, lập đền thờ ở xã Gành Dầu, Bắc đảo Phú Quốc, cách trung tâm Dương Đông khoảng 20km. Đặc biệt, nơi quê gốc của ông ở thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, cũng lập đền thờ ông nơi mệnh danh là “ Tọa sơn ngọa thùy,” phong cảnh hữu tình, hàng năm cũng thu hút rất nhiều du khách thập phương đến chiêm bái và ngoạn cảnh…

***

Nhựt Tảo, Kiên Giang, ngàn năm ghi danh vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, đúng như những lời ai điếu mà nhà chí sĩ yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt còn ghi lại: “Anh hùng cường cảnh phương danh thọ/Tu sát đê đầu vị tử nhân,” dịch nghĩa: “Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi/Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.” Ông “sống vi tướng, thác vi thần,” được vua Tự Đức sau này sắc phong là “Thượng Đẳng Linh Thần” để đời đời hậu thế ghi tạc.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Cún khóc
Bạn tôi kể: Bỗng… một hôm, nhà anh xuất hiện rất nhiều chuột. Chuột đủ loại: Chuột Cống – Chuột Đồng – Chuột Chù – Chuột Nhắt… Chúng quá thể…
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: