Chiêm bao trắng – Kỳ 1

(Hình minh họa: Jez Timms/Unsplash)

Người bơi thuyền trên dòng sông xanh

Thấy trăng vàng dưới đáy long lanh

Đưa tay bắt vô tình chấn động

Trăng tan rồi sông cũng loanh quanh (Th.H)

Tôi vừa đi chợ xách giỏ về đến nhà, đang tìm chìa khoá đã nghe tiếng điện thoại reo giục giã. Quýnh quáng tôi mở được cửa rồi quăng đại giỏ thức ăn vào góc, chạy lại bắt máy thì giọng nói ỏng ẹo cất lên:

–Bồ làm cái chi mà ta gọi gần cháy máy luôn tới chừ mới trả lời vậy?

–Ta đi chợ mới về đây, ai biết bồ gọi mà ở nhà chờ chứ. Lãng quá đi!

–Từ sáng giờ cứ 30’ là ta gọi 1 lần, vị chi khoảng sáu lần rồi đó.

–Làm gì hôm nay gọi sớm thế? Bình thường bồ gọi vào buổi chiều hoặc tối, có chuyện gì hả?

–Ta gọi để kể bồ nghe là ta đã đặt vé đi Vietnam rồi. Hai tuần nữa là đi.

–Vậy bồ nhất quyết đi, không thay đổi à?

–Không! 

–Nghĩ kỹ chưa?

–Kỹ rồi, đã nghĩ hàng ngàn lần rồi, không thay đổi nữa.  

Đó là Dạ Quỳnh, cô bạn thân học cùng tôi từ năm lớp sáu (đệ thất).

Nhỏ gốc Huế, ba nó là “dân nhà binh” vào tận quê tôi đóng trong tiểu khu tỉnh nên đem vợ con theo. Còn tôi ngày ấy là một con bé nhút nhát đến bịnh hoạn, không bao giờ tự ý bắt chuyện với bất cứ ai, vì vậy trong lớp tôi rất ít bạn. Hồi còn học tiểu học tôi chơi với một chị bạn người Cam Bốt, lớn hơn tôi bốn tuổi rất hiền lành và yêu thương bảo vệ tôi hết mực khi có bạn khác bắt nạt. Đáng buồn là học mới giữa chừng lớp nhất (tức lớp 5) thì bị ba má bắt chị nghỉ học ở nhà chăm sóc em, thế là tôi lẻ loi.

Giờ ra chơi mọi người túm tụm nhau từng nhóm trò chuyện hay đi dạo trong sân trường, còn tôi chỉ đứng ở một góc nào đó, lắng nghe mọi người líu lo chứ không hề dám xen vô. Vào trung học năm đầu tiên, được mặc áo dài tự cảm thấy mình lớn và quan trọng hẳn lên, nhưng cái tính nhút nhát thì không bớt chút nào. Trong lớp rất đông, sĩ số những 60 học trò. Có rất nhiều gương mặt lạ nên tôi càng thu người trong vỏ ốc của mình kỹ hơn nữa. 

Tôi nhớ mỗi khi thầy, cô điểm danh hoặc kêu trả bài, hễ đến tên Dạ Quỳnh là hầu hết học sinh đều quay nhìn nó vẻ cười cợt vì chất giọng xứ Huế của nó. Có đứa còn thử nhại lại rất chi là bất lịch sự. Những lúc đó Dạ Quỳnh xấu hổ mặt đỏ gấc, đầu cúi xuống, luống cuống kéo lọn tóc phủ một bên má rất tội nghiệp. Có lần tôi thấy nó lén đưa tay chùi giọt nước mắt chảy trên má nữa. Khi mấy trò đó bị thầy cô trách là không tử tế với bạn thì họ trêu ghẹo vào những lúc khác, kín đáo hơn. 

Các bạn không ác ý, chỉ vì nghe lạ tai bởi thời ấy ít có dân ở miền khác đến sống nơi cái tỉnh gần tận cùng phía Nam của tôi lắm. Vả lại lúc ấy chúng tôi chỉ là những đứa trẻ nít mà. Tôi rất bất bình nhưng không dám lên tiếng bênh vực, chỉ thỉnh thoảng nhìn Dạ Quỳnh bằng ánh mắt biểu lộ thông cảm mà thôi. Một buổi ra chơi nọ, tôi đang đứng dựa vào cửa lớp nhìn mông lung ra sân trường thì nghe có tiếng thỏ thẻ bên tai:

–Chào bồ, phải bồ tên Th.H không? 

Quay qua, thì thấy cô-gái-Huế đứng cạnh bên, và nhìn mình. Tôi lí nhí trả lời: 

–Phải, “tui” là Th.H đây.

–Còn “tui” là Dạ Quỳnh, xin được làm quen nha. 

Tôi mừng rơn, gật đầu lia. Từ đó chúng tôi thân nhau. 

Dạ Quỳnh kể rằng vì thấy tôi ít nói, e thẹn, cách biệt, mỗi khi bị các bạn khác chọc cái giọng Huế bỏ dấu nặng khó nghe thì tôi hay nhìn nó bằng ánh mắt thương cảm nên nó cũng để ý tôi từ đó, và muốn kết bạn. Thế là hai kẻ lạc loài cặp kè nhau không rời. Ngộ một điều, là với người trưởng thượng hay người lạ thì tôi không dám trò chuyện, nhưng với người nào tôi cảm nhận sự quan tâm đến mình thì tôi nói năng dễ dàng, thoải mái. Nên giữa hai đứa tôi hầu như không có chuyện gì giấu nhau hết. 

Dạ Quỳnh hay đến nhà tôi chơi, nhiều khi mùa thi còn ngủ đêm học bài cùng nhau. Gia đình tôi rất yêu quí nó. Ba mẹ nó cũng biết và yêu quí tôi lắm (lời nó kể lại). Nhưng tôi chỉ đến thăm gia đình Dạ Quỳnh 2 hay 3 lần gì thôi. Vì ba nó là sĩ quan làm việc trong tiểu khu tỉnh, nơi lính tráng đông đúc mà ba tôi thì nghiêm khắc như hầu hết các công chức thời xưa. Ngoài giờ đi học ra chị em chúng tôi chỉ quanh quẩn trong nhà chơi cùng nhau. 

Ba tôi khó đến nỗi chẳng hạn như: dặn chị em tôi chỉ được nói chuyện với bạn học trai trong phạm vi trường lớp, hễ bước ra khỏi cổng trường thì dù có đụng mặt cũng làm như không quen biết gì hết! Còn tuyệt đối không được tặng hình cho cả bạn gái thân thiết, vì biết đâu bạn gái ấy có anh trai hay anh họ gì đó đem hình bỏ vào bóp rồi đem khoe với mọi người đây là người yêu của anh ta thì sao. 

Chắc một phần do sự giáo dục quá nghiêm khắc ấy, cộng vào bản tính nhút nhát có sẵn nên càng khiến tôi trở thành con rùa rụt cổ thêm chứ gì!

Thời gian đầu, Dạ Quỳnh nói rặt giọng Huế. Tôi cứ thường xuyên yêu cầu nó lập lại nhiều lần. Giọng đã khó nghe mà danh từ lại càng khác lạ, nên thỉnh thoảng chúng tôi tức giận cãi nhau vì nó hiểu lầm tưởng tôi cố tình giễu cợt. Lúc giận nó nói càng nhanh càng rối rắm, tôi tròn mắt ngó, đợi nó nói xong thì hỏi lại:

–Ê, bồ vừa nói gì vậy tui không hiểu?

Nó tưởng tôi cố tình chọc tức nên đỏ mặt tía tai, oà khóc. Tôi hoảng hồn, hỏi tiếp:

–Ủa sao bồ khóc? Thật tình tui không hiểu mới hỏi lại mà sao bồ giận?

Suy nghĩ lại, nó bật cười mà nước mắt nước mũi chảy tèm lem:

–Ừa, tui quên là bồ không hiểu cái chữ tui vừa nói, xin lỗi nha. 

Rồi nó giảng giải ý nghĩa của danh từ đó, lát sau tôi mới ngộ ra được. Dần dần, Dạ Quỳnh bắt chước sửa giọng nói lẫn dùng những danh từ miền Nam cho dễ nghe. Theo thời gian các bạn cũng không còn chọc ghẹo lối phát âm du dương, bỏ dấu nặng như điệu nhạc của nó nữa. Lâu lâu quên thì nó cũng chêm vào vài chữ Huế  như: mô, tê, răng, rứa, ni, chừ… thế thôi. Ở nhà thì nó vẫn nói giọng Huế với ba mạ, các em.

Thời gian dần trôi. Từ giai đoạn chúng tôi chỉ là mấy đứa trẻ tuy mặc áo dài đến trường, nhưng khi về nhà vẫn còn chơi bán hàng, chơi nhảy dây, cút bắt… cũng lớn dần theo năm tháng. Sau kỳ nghỉ hè, tựu trường năm đệ tứ, tức lớp 9 thì Dạ Quỳnh trổ mã thành thiếu nữ, biết làm duyên khi gặp người khác phái.

Mái tóc đen nhánh mượt mà buông dài tới tận eo, gương mặt hình ovale với đôi mắt long lanh như nước hồ, miệng làm duyên lúc thì mĩm nụ hoa hàm tiếu, lúc cười khoe hàm răng trắng đều. Thân thể cô cũng nẩy nở chứ không gầy guộc như tôi. Trên đường đi học hể thấy bóng dáng thanh niên từ xa là cô bắt đầu nghiêng nghiêng vành nón lá, chiếc nón bài thơ mạ cô ấy mang vào mỗi khi về quê thăm nhà, nét mặt từ nhí nhảnh biến đổi sang mơ màng như thể đang được nghe ai tỏ tình vậy. Và bao lời liếng thoáng bỗng mất tăm để trở thành một thiếu nữ đoan trang thuỳ mị. Tôi mang cảm giác như có hai Dạ Quỳnh trong một người. 

Còn tôi tuy cũng bắt đầu hay buồn vu vơ, vỏ vẻ làm thơ tình và viết tiểu thuyết nhưng hình dáng bên ngoài vẫn chả thay đổi bao nhiêu, cứ thẳng đuột cao như cây sậy. 

Tuổi 15, 16 thành thiếu nữ nên tập tành làm dáng chút chút. Chút- chút có nghĩa là khi mặc áo dài chuẩn bị đi học tôi cũng nhìn vào gương để xem mình có tươm tất không. Và cứ mỗi tuần thì thay quai nón lá: xanh ngọc, xanh da trời, xanh đại dương, hồng sen, tím nhạt, vàng mơ…. Chỉ đến thế thôi. 

Thời mới lớn sao mà hồn nhiên! Viết mấy dòng trên, tôi chạnh lòng bâng khuâng nhớ tiếc ngày xưa của mình quá.

Thôi qua rồi em một thời thanh xuân

Trí tuệ tài năng đua nhau nẩy mầm

Đôi mắt nai vàng nhìn đời trong sáng

Ai cũng thiên thần như chính bản thân (Th.H)

Trường cách nhà chỉ hơn cây số nên tôi đi bộ. Thỉnh thoảng có“cái đuôi” bám theo: Em tan trường về/Anh theo Ngọ về (Nhạc Phạm Duy) là tim tôi run hết. Sợ rủi người quen trông thấy về méc lại ba má, sợ bị thầy cô chúng bạn chê cười tưởng mình lăng nhăng nầy nọ.

Hai chúng tôi thỉnh thoảng nhận được thư tình của bạn học cùng trường gởi. Nhưng mỗi đứa phản ứng một cách khác nhau. Dạ Quỳnh thì bâng khuâng, mơ màng khi đọc thơ dù không đáp ứng lại tình cảm. Phần tôi thì vừa đọc vì tò mò vừa lo lắng (tính tôi hãy còn con nít), đưa cho Dạ Quỳnh nhờ cô ấy đem xé đi chứ tôi không dám mang về nhà, lỡ ba má thấy thì không biết hậu quả sẽ thế nào. Cô ấy la:

–Trời cái con ni sao mà khờ quá. Nhận thơ con trai mà làm như lên đoạn đầu đài ấy, cái mặt xanh lét tưởng bịnh đến nơi. 

Tôi cứ ngạc nhiên tự hỏi sao Dạ Quỳnh chỉ lớn hơn tôi một tuổi mà cô ấy chín chắn quá, giờ đây chủ đề các buổi nhỏ to tâm sự không còn nói về chuyện học hành làm bài tập, chuyện tối ngủ sợ ma, hay rủ tới nhà nấu chè ăn… Mà luôn thấp thoáng hình ảnh một chàng trai nào đó. Tôi lắng nghe rồi mắng thầm: Cái con nhỏ nầy không lo học hành cả ngày chỉ nghĩ có mỗi chuyện yêu với đương, con nít quỉ!  

Một hôm gần hết niên học đệ tứ, Dạ Quỳnh vào lớp ghé tai tôi nói nhỏ:

–Ê Th.H, giờ ra chơi mình đến góc phượng tuốt đầu sân kia, tui kể bồ nghe chuyện nầy hay lắm.

Cái chuyện mà cô ấy định kể là:

–Mình gặp tiếng sét ái tình thật rồi. 

Cô đổi cách xưng hô để nghe thanh tao hơn khi nói về chuyện tình của mình, nên tôi cũng tự động đổi theo luôn.Tôi nhìn cô gái đối diện: đôi má hồng mơn mởn, cặp mắt rạng ngời toát lên hạnh phúc của người đang yêu, mái tóc đen huyền buông rủ tận vòng eo thon thả trông thật duyên dáng dễ thương làm sao ấy.

Tôi nói:

–Bồ quyến rũ như thế có người yêu cũng phải thôi. 

Cô khoe với tôi đó là anh chàng lớp trưởng lớp đệ nhất (lớp 12), cái người cao cao ốm ốm, mái tóc bồng bềnh dáng nghệ sĩ. Hồi lễ tất niên ôm guitar hát nhiều bài rất hay như Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong, Hoài Cảm của Cung Tiến…nhưng chính bài Đạo Ca số 3 của Phạm Duy: Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng (Ảo hoá) mới chinh phục trái tim của Dạ Quỳnh.

Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong ruổi sa trường

Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong suốt thời gian…

Một chàng dũng sĩ đôi mắt u buồn như ánh trăng vàng

Lòng chàng nung nấu một mối u sầu tìm dấu người yêu…

Tôi hỏi:

–Vì sao anh ta hát bài đó mà làm tim bồ xao xuyến? Chỉ nói về dũng sĩ với ngựa vàng thôi mà.

–Ôi bồ nói vậy là vì không hiểu nội dung bài hát đó, lúc hát mấy câu cuối bài đó anh nhìn thẳng vào mình với đôi mắt rực sáng như thể muốn gởi gấm tâm sự của anh cho chỉ mình thôi. Mình như bị thôi miên không ngó đi đâu được hết, cái giây phút huyền dịu đó như thể thế giới chỉ có hai đứa. Trái tim mình rung động dữ dội, nhận ra anh chính là người trong mộng của mình, và mình đúng là người anh đi tìm kiếm như trong bài hát. Hai đứa mình sinh ra là thuộc về nhau mà.

–Anh ta có thể đúng là người trong mộng của bồ, nhưng sao bồ biết bồ chính là người anh ta tìm kiếm?

–Linh cảm cho mình biết. Cái nầy không giải thích được đâu, chỉ những người cùng cảm nghĩ, cùng tần số thì mới nhận ra nhau giữa đám đông thôi. 

Rồi cô ấy giảng giải thêm:

–Bồ không nhớ có lần mình đọc cuốn sách nói về con chim cánh cụt Hoàng Đế ở Nam Cực (Emperor penguin), là giống chim rất chung thuỷ và tính xã hội cao. Mỗi năm đến mùa thu, mùa đông là hằng trăm ngàn hằng triệu con từ phương xa kéo nhau về miền băng giá để hội ngộ trống mái và sinh con đẻ cái. Nhờ tiếng kêu chúng vẫn nhận ra nhau giữa hàng triệu âm thanh không bao giờ lẫn lộn với những con khác, và không bao giờ “lăng nhăng, láng cháng” ngoại trừ bạn nó qua đời thì nó mới đi tìm bạn khác. Mình với anh cũng vậy đó. Mình chắc chắn là tìm ra một nửa của mình giữa thế giới mênh mông này rồi.

Cô ấy còn diễn thuyết cho tôi nghe nhiều nữa về chàng dũng sĩ của cô, giống như trong bài hát đã rong ruổi khắp nơi đi tìm người yêu tới nỗi ngựa vàng thay đổi sắc lông, tới nỗi chiếc áo tươi mầu đã nhạt phai mà vẫn chưa tìm ra. Không ngờ người yêu ở ngay bên cạnh, chính là con ngựa vàng mà chàng hằng cưỡi.

Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người yêu muôn thuở

Ngựa vàng đã hoá thân, hoá thân là người vẫn hằng mơ…

Rồi cô ấy dựa người vào gốc cây phượng, hơi ngửa mặt lên trời  hát tiếp mấy câu cuối:

Rồi chàng dũng sĩ đôi mắt sáng ngời như ánh mặt trờ

Cùng người yêu quí đi suốt cuộc đời tình ái nở hoa…

Giây phút ấy hình ảnh Dạ Quỳnh bỗng thăng hoa đẹp tựa thiên thần. Ghê gớm thay mãnh lực của tình yêu. Tâm hồn trong sáng thánh thiện của tuổi trẻ mới tập tễnh bước chân vào đời, chưa qua lần vấp ngã nên nhìn đâu cũng thấy toàn điều tốt đẹp. Tôi thành thật chúc mừng bạn, vui lây với niềm hạnh phúc đó. Qua cơn phấn khích, bỗng Dạ Quỳnh quay nhìn tôi:

–Còn bồ nữa, bao giờ mới chịu yêu hả? Cũng khối chàng trồng cây si mà trong đó mình chấm dùm bồ vài chàng để bồ lựa mà sao chưa chấp nhận hả?

–Trời, tình cảm mà bồ nói như thể lựa táo lựa nho ấy.

Dạ Quỳnh nghe vậy lại hát tiếp: 

Ngày nào cho tôi biết, biết yêu em rồi tôi biết tương tư

Ngày nào cánh thiên đường, đã mở hé tình yêu là trái táo thơm

Tôi ghé răng cắn vào miệng môi ngọt đắng.

(Bao giờ biết tương tư, nhạc Phạm Duy)

Tôi nói:

–Thì đấy, chính vì sợ cắn nhằm trái táo đắng mà mình không dám quen ai hết. Cứ đứng ngoài cổng thiên đường nhìn vào, giữ khoảng cách như vậy để còn có cái mà mơ. Thực tế bao giờ cũng trần trụi lắm bồ ơi.

–Bồ nói như thể mình đã kinh nghiệm vậy, bộ từng yêu ai mà giấu ta hả?

–Hồi nào đâu? Bồ gần gũi ta vậy mà không hiểu ta à? Ta đọc trong sách viết vậy và suy ngẫm thấy cũng có lý.

–Sách nào? Nói chi? Kể ta nghe coi.

–Thì đại khái nói rằng: Tình yêu giống như hạt sương buổi sớm mai, ở xa trông lóng lánh ngỡ là hạt kim cương, khi lại gần chỉ là giọt nước mắt.

Dạ Quỳnh cười ngặt nghẽo:

–Thôi, cho xin mấy cuốn sách lãng mạn của bồ đi. Câu đó chắc là do cái bà hoặc cái ông nào bị thất tình viết ra, đừng có tin. Bằng chứng là mình đã tìm được tình yêu trong đời thực đây.

–Thì bồ cứ yêu đi, còn ta thì thích học thêm nhiều năm nữa mới nghĩ chuyện kia.

(Còn tiếp)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Phượng
Mây giăng bên này về mưa bên ấy gởi hạt ân cần thăm người năm cũ gởi hạt mưa gầy rơi trên má ai hạ đỏ Phượng xưa những chiều…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: