Ân Tứ

Thân tặng vợ chồng chị Tuyết và anh Minh
(Hình minh họa: Pixabay)

Sau mấy tháng đến sinh hoạt với Hội Thánh Giám Lý Anaheim, tôi khám phá ra một điều lý thú. Ngoài những ân tứ mà tôi thường nghe các vị mục sư giảng và các tín hữu chia xẻ, tôi biết Chúa còn cho con người chúng ta một ân tứ đặc biệt. Ân tứ “đòi nợ”! Quý vị có nghe lạ tai không? Thật ra tôi không biết chính xác từ nào để diễn tả được ân tứ này.

Từ nhỏ tôi vẫn ước mơ những điều mà chị tôi vẫn bảo là “cao hơn trời.” Tôi mơ mình đi du lịch đến những kỳ quan của nhân loại. Tôi muốn sống ở một thành phố nổi tiếng trên thế giới. Nhưng có một ước mơ mà chính tôi cũng không bao giờ nghĩ mình có thể đạt được chứ đừng nói chi đến chị tôi.

Dẫu vậy tôi vẫn cứ mơ. Tôi mơ có một ngày nào đó những bài viết của tôi sẽ được đăng báo. Chị tôi cười vang khi nghe tôi ước. Không phải chị tôi độc đoán khi nhạo cười những ước mơ của tôi. Bởi vì môn văn của tôi lúc nào cũng chỉ vào cỡ bốn phẩy chín hoặc năm phẩy tính theo thang điểm mười ở Việt Nam. Còn các thầy cô dạy văn thì lúc nào cũng ghi vào học bạ của tôi những câu đại loại như, “Trung bình yếu. Cần cố gắng hơn.”

Trong đám bạn  của tôi, đứa nào cũng sáng tác được một vài bài thơ. Còn tôi thì nửa chữ thơ kiếm cũng không ra. Chỉ có một điều mà chị tôi cũng như vài đứa bạn của tôi đều đồng ý là tôi có khiếu kể chuyện. Nhưng mà chỉ nói thôi, chứ cầm viết lên thì tôi không biết viết như thế nào. Vậy đó, chỉ có một chút xíu công nhận của chị tôi và bạn bè mà tôi vẫn nuôi mãi ước mơ thuở nhỏ.

Sự nghiệp “dzăng chương” của tôi (nói theo ngôn ngữ của chị tôi) bắt đầu khi tôi gặp phu nhân của ông trưởng ban truyền thông của Hội Thánh Giám Lý Anaheim vào mùa thu đầu tiên của tôi trên xứ Mỹ. Hội thánh kêu gọi đóng góp bài vở cho đặc san Giáng Sinh và Tết. Chả hiểu dòm mặt mũi tôi thế nào mà chị đến bảo tôi, “Em phải viết một bài báo đó nha!” Tôi không dám gật mà cũng không dám lắc đầu. Gật đầu với chị thì tôi không thể, bởi tôi đã từng bao giờ viết cái gì đâu. Còn lắc đầu thì tôi sợ mất một cơ hội thực hiện một ước mơ bao nhiêu năm của tôi. Mỗi Chúa Nhật gặp tôi ở nhà thờ, chị đều nhắc, “Nhỏ ròm này nè! Bài đâu? Không viết là chị đòi hoài đó nha.” Chẳng biết có phải vì chị đòi nợ tôi mỗi tuần hay chăng nhưng cuối cùng tôi cũng viết được một bài để đưa cho chị. Tôi nóng lòng trông chờ đến ngày Giáng Sinh để xem cái “tác phẩm” đầu tay của mình. Tôi dám chắc cái háo hức của các em nhỏ cho ngày lễ này chắc không thể lớn hơn của tôi. Tôi trông đợi một món quà mà tôi đã mơ ước bao nhiêu năm.

Và rồi ngày 25 tháng 12 cũng đến. Cầm cuốn đặc san Giáng Sinh trên tay, tôi mở ra lướt vội mục lục. Tôi hồi hộp khi thấy bài viết của tôi đã được đăng trong tờ báo. Về đến nhà, tôi vội vàng mở cuốn báo ra, đọc bài viết của mình. Ái chà! Phần trình bày của trang báo mới hay làm sao. Tôi cảm thấy bài viết của tôi dường như thú vị hơn nhờ phần trình bày ấy. Tôi cầm cuốn báo đi ra phòng khách. Ba tôi cũng đang đọc một cuốn báo. Cũng giống như bao người cha Việt Nam, ba tôi rất tiết kiệm những lời khen tặng đối với con cái. Dẫu vậy, tôi cũng muốn nghe ý kiến của ông. Tôi hỏi ông, “Ba đọc bài của con viết chưa? Ba tôi gật đầu nhưng mắt vẫn không rời tờ báo. Tôi hỏi tiếp, “Nghe hay không ba?” Ba tôi cười, “Nghe cũng được. Cũng gần giống nhà văn…” “…nhưng không biết văn gì… Mấy đứa em tôi chêm vào. Cả nhà tôi rộn vang tiếng cười. 

Anh họ tôi ở nhà kế bên bước sang nhà tôi cười khen. “Hey! Viết hay đó nghe. Viết một bài cho đặc san của Cựu Học Sinh trường Trần Cao Vân đi! Anh gởi đăng cho. Đầu óc lúc đó mới sang Mỹ còn nhớ bạn bè thầy cô trường lớp thiết tha nên tôi viết một bài ngắn “Nhớ về trường xưa” đưa cho anh vào đầu năm 1995. Thế rồi những tất bật của những ngày đầu ráng làm quen với xứ Mỹ làm tôi quên mất bài viết. Không nhớ là nó có được đăng trên đặc san của hội Cựu học sinh trường Trần Cao Vân ở miền Nam Cali không.

Mãi đến năm 2001, tôi về thăm Tam Kỳ và đến nhà thăm cô giáo dạy Văn năm lớp 12, cô Nguyệt Thanh, là người mà tôi rất ngưỡng mộ và quý mến. Trong lúc chuyện trò, cô nói. “Bài em viết cảm động lắm. Cô đọc bài của em cho học trò nghe và kể cho tụi nó biết là mười mấy năm trước các bài văn thời tiền chiến không được giảng dạy trong trường lớp.” Nghe cô khen tôi ngớ người hỏi, “Dạ em viết gì ạ?” Cô trả lời,“Bài đăng trên đặc san của trường. Để cô kiếm cho em một cuốn.”

Hôm sau cô đem cho tôi một cuốn đặc san của trường với chữ ký tặng của cô. Ngồi xe lửa từ Tam Kỳ vào Sài Gòn, tôi đọc cuốn đặc san trong đó có bài viết “Nhớ về trường xưa” của tôi thật nhiều lần với niềm vui khôn tả. Mặc dầu năm 1999, bài “Mẹ Tôi và Quê Nội” của tôi đã được đăng trên một tờ báo ở Quận Cam nhân dịp lễ hiền mẫu năm ấy, tôi rất bất ngờ khi thấy bài của tôi được đăng trên đặc san của trường. Tôi vui bởi tôi, một con bé văn chương vừa đủ đậu ngày xưa mà có được bài viết đăng trên đặc san đặc biệt của trường. 

Nhưng điều làm tôi vui hơn là tôi không gởi bài đăng trên đặc san do trường phát hành nhưng có ai đó đã “chọn” và gởi bài của tôi về trường để đăng.  Đây là một điều không có trong ước mơ ngày xưa của tôi. Cảm ơn người đã gởi bài của tôi về cho trường năm ấy!

Dẫu vậy khi về Mỹ, tôi không có thì giờ để “thả hồn” viết bài mới. Học hành, thi cử, tìm việc làm chiếm hết thì giờ của tôi. Mỗi mùa hè có ít thì giờ rảnh, tôi viết một bài để dành trả nợ cho phu nhân của ông trưởng ban truyền thông của hội thánh vào mỗi dịp Giáng Sinh về. Thi thoảng tôi cũng viết một vài bài đăng trên các báo ở Quận Cam.

Sau đó thì bận… hò hẹn với chàng, rồi đám cưới, sinh con, nuôi con. Khi lập gia đình, tôi theo chồng, rời hội thánh nhỏ của tôi ngày ấy đến sinh hoạt ở hội thánh nói tiếng Anh và không có đặc san Giáng sinh nữa. Nhưng tôi vẫn giữ thói quen đó bởi mỗi Giáng Sinh tôi có kỳ nghỉ dài hơn một tháng rồi cộng thêm mấy tháng nghỉ hè. Đó là những khoảng thời gian viết lách của tôi. Tôi viết những bài báo tiếng Việt như là một thú tiêu khiển. Tôi lập trang thuynhu.weebly.com để những bài viết của tôi trên đó và gởi ra “nhờ” chị em tôi, vài người bạn và mấy ông anh họ đọc.

Năm 2015 bạn bè lớp 12 “kiếm” được email của tôi và gởi hình ảnh các bạn họp lớp. Thế là lại điện thoại nói chuyện với tụi nó và gọi hỏi thăm cô Nguyệt Thanh. Cô “mời”, “Em viết bài đăng báo nhân kỷ niệm 60 thành lập trường đi. Cô sẽ gởi đăng cho.” Đang cảm xúc dạt dào, tôi viết bài “Trường Trần Cao Vân Năm Nao.” Tôi cũng chỉnh sửa lại bài “Có Một Người Thầy” tôi viết mấy năm trước đó và gởi cho cô.

Trong hai bài viết đó tôi kể về những kỷ niệm với thầy cô và bạn bè của tôi ở trường Trần Cao Vân. Tôi cũng có kể chuyện ngày xưa tôi học môn Văn ẹ như thế nào. Sáng hôm sau thức dậy thấy email của cô, “Cô đã đọc liền 1 mạch 2 bài của em, rất chân thành, dung dị, trong sáng. Không ai đánh giá em học môn văn xoàng khi đọc những bài này. Thật ra, viết những điều nằm sâu trong tâm thức thì tự nhiên sẽ mạch lạc. Có lẽ, ngày trước môn văn quá khô khan, nặng chất chính trị khó lòng gợi cảm hứng cho học trò…” 

Tôi đọc những lời khen của cô mà lòng vui ngây ngất. Ngày xưa tôi học văn mém chút rớt. Vậy mà giờ được cô giáo của tôi dạy Văn nổi tiếng Tam kỳ khen hai bài viết của tôi. Vui thật là vui! Cô lý giải việc hồi xưa tôi học môn Văn kém thật quá đúng. Hồi đó thấy tôi điểm môn Văn tệ quá, mấy đứa bạn bày, “Mi phải viết ri nề! ‘Với tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,…’ Rồi bịa thêm cái chi đó vô cho đầy một đoạn văn. Kết luận thì viết, ‘là học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa,’ xong rồi “hát” lên chút nữa. Viết như rứa thì cách chi cũng được hơn 5 điểm.”

Tôi nghe lời tụi nó, cũng viết hai câu công thức đó nhưng không thấy “chế độ cộng sản của ta” ưu việt ở cái chỗ nào, mà cũng không biết học sinh “dưới mái trường xã hội chủ nghĩa” như tôi có được phép làm cái gì. Thế là tôi bí. Tôi không tài nào bịa ra hay hát thêm như tụi nó chỉ. Tôi dẹp thành ngữ đó qua một bên, ráng nghĩ cách viết khác nhưng rồi hết giờ. Tôi rặn thêm mấy chữ và kết thúc bài văn không đầy ba trang viết tay trên vở học trò. Bởi vậy, vì viết văn không ra chữ thành ra thầy cô không thể cho điểm cao. Nhưng có lẽ tôi viết không sai chính tả nên thầy cô thương tình cho tôi lên lớp mỗi năm. 

Năm 2024 về Tam Kỳ gặp lại bạn bè và lập ra group chat tán gẫu với mấy cô bạn thân ngày xưa. Tôi gởi cho tụi nó mấy bài viết để cho tụi nó thấy là tôi nhớ tụi nó thiệt chứ không phải nói chơi. Tụi nó khen những bài tôi viết cảm động làm tụi nó thấy nghèn nghẹn và ướt mắt. Một cô bạn biết tôi ngày xưa viết lách như thế nào thì gởi lời khen kèm theo lời nhắn, “Hồi xưa đi học thấy so so nhưng mà răng chừ viết hay rứa he.” Cô bạn này là vua chơi chữ của lớp tôi. Mỗi câu mỗi chữ nó nói là có hai ba nghĩa. Nó viết “so so” đọc theo tiếng Anh có nghĩa là “tạm tạm.” Hai chữ đó cũng đồng âm với “sô sô” với tiếng Quảng “nôm”, có nghĩa là “sao sao ngộ ngộ” theo tiếng Tây… Nam bộ. 

Túm lại là nó nói tôi ngày xưa viết quá tệ. Còn “răng chừ viết hay rứa he” tôi nghĩ không phải là nó khen tôi viết hay mà nó quở là tại sao bây giờ tôi viết ra chữ. Chọc nó cho vui vậy thôi chứ tôi thích nghe lời bình rất Quảng của nó và những lời khen chân tình của các bạn tôi.

Nghe tụi nó khen, tôi nghĩ biết đâu có báo muốn đăng bài của mình. Tôi lục trong mạng của tôi, có lẽ đã bị nhện giăng vì không có người đọc, lựa bài gởi đăng báo. Tôi đọc trên saigonnhonews có đăng mấy truyện ngắn mà tôi thích. Thế là tôi gởi bài nhờ đăng.

Không những bài viết tôi có mặt trên báo nhưng tôi cũng nhận được thư của nhiều độc giả sau bài “Ai Là Tác giả của bài hát ‘Thuở Làm Thơ Yêu Em’?” Tôi mừng vì tìm được câu trả lời trong thời gian ngắn và vui hơn khi biết bài viết của tôi có người đọc và chuyển tiếp. Thấy có độc giả quan tâm tới bài viết của mình, tôi siêng viết hơn.  Cũng nhằm lúc, các con tôi đã lớn nên tôi có thời giờ ngồi gõ trên bàn phím. Bạn bè ngạc nhiên: “Kiếm đâu ra thì giờ mà viết bài đăng mỗi tháng như vậy?” Tôi gởi cho tụi nó mấy cái mặt cười tươi rói kèm theo lời nhắn, “Tại vì tui không chơi Facebook nên guỡn thành ra viết.”

Có lẽ tôi sẽ không bao giờ viết được một bài viết nào nếu không bị phu nhân của ông trưởng ban truyền thông năm xưa bền lòng “đòi nợ.” Lúc đó, mùa Giáng Sinh nào tôi (và có lẽ là tất cả mọi người) đều bận rộn, nhưng tôi cũng phải dành thì giờ để viết một bài trả nợ cho chị.  Không chỉ mình tôi nhưng nhiều nhà văn thứ thiệt trong hội thánh cũng bị chị đòi nợ mỗi mùa Giáng Sinh về. Nhờ sự “đòi nợ” bền bỉ của chị mà mỗi số báo Giáng Sinh hồi đó của hội thánh được phong phú với nhiều bài viết đủ thể loại. Nhờ chị bền lòng “đòi nợ” năm đó mà tôi mới bắt đầu viết để rồi tiếp tục viết mỗi năm. Chị đã giúp tôi có được một ước mơ thời thơ trẻ. Một ước mơ dường như chỉ để mơ mà thôi. Bây giờ quý vị có đồng ý với tôi rằng cách “đòi nợ” của chị là một ân tứ hay không? Cảm ơn chị đã bền lòng “đòi nợ” để em khám phá ra rằng mình có thể viết.

(Hình minh họa: Pixabay)

Tôi cũng cảm ơn những người đã luôn khuyến khích và góp ý cho việc viết lách của tôi để tôi dám viết tiếp trong nhiều năm qua. Cảm ơn chị Ngân Bình, một cây viết về hôn nhân gia đình rất hay. Cảm ơn chị Hồ Thụy Mỹ Hạnh, người chuyên viết về những chuyện tình cảm rất cảm động. Cảm ơn chị Hoàng Quân, tác giả của nhiều chuyện phiếm vui làm tôi vừa đọc vừa cười tủm tỉm. Các chị là những tay viết kỳ cựu với hàng ngàn độc giả mà đã để thì giờ email khích lệ những bài viết của tôi. Nhất là chị Hoàng Quân đã thường tán gẫu bên lề về các bài viết của chị và tôi trên saigonnhonews. Tôi rất cảm động khi đọc những lời khen của các chị. Cảm ơn Nhi Sa hồi nào cũng mau chóng viết những bài nhạc tôi nhờ để gởi chung với bài viết. Điều này tôi chỉ đọc thấy trên báo chí văn chương chứ tôi nào dám mơ tới.

Tôi cũng nhận được email của một số độc giả bảo rằng những bài viết của tôi đã gợi nhớ những kỷ niệm của họ lúc sống ở quê nhà mấy mươi năm trước.

Có người kể cho tôi nghe những kỷ niệm ngày xưa. Hy vọng tôi sẽ chuyển những kỷ niệm đó thành những bài viết khác. Tôi thật vui khi đón nhận những cảm nghĩ đồng điệu như vậy từ bạn đọc, những người mà tôi chưa bao giờ quen biết trước đó.

Cảm ơn những lời khen tặng của các độc giả. Đó thật là một sự khích lệ rất lớn cho tôi.

Cảm ơn saigonnhonews lúc nào cũng ưu ái đăng những bài viết của tôi và tìm những hình minh họa rất hợp với những bài viết ấy.  

Bạn bè và thầy cô biết tôi ngày xưa viết tệ như thế nào. Bởi vậy bây giờ tôi có được những bài viết đăng báo thì quả là chuyện lạ. Như cô giáo dạy Văn của tôi nói, bây giờ tôi viết về những kỷ niệm thân thương, viết về những điều làm mình cảm động nên chữ nghĩa tuôn ra dạt dào.

Nhiều người Mỹ dành Tháng Mười Một viết tiểu thuyết để tham dự giải National Novel Writing Month. Năm nay giải thưởng đó đã bị huỷ bỏ vì Artificial Intelligence (AI) dẫu vậy nhiều người vẫn lấy tiêu chuẩn đó để thử sức.

Tôi chẳng mơ viết được tiểu thuyết và còn lâu tôi mới viết được như các nhà văn thực thụ. Nhưng tôi vui vì những bài viết của mình được đăng báo như trong ước mơ thủa bé của tôi. Bài viết này là để trả lời cho bạn bè tôi và một số độc giả đã hỏi. “Học Toán mà sao viết văn?”

Tôi cũng suy nghĩ nhiều lần để tìm câu trả lời nghe cho được nhưng không thấy có một lý do nào hợp lý. Tôi thấy câu trả lời đúng nhất phải là những bài viết của tôi bây giờ là do Chúa ban. Những bài viết đã giúp tôi nối kết với bạn bè cũ cũng như mới và giúp tôi đếm lại rất nhiều ơn phước Chúa đã tuôn đổ trên cuộc đời tôi.  

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Phượng
Mây giăng bên này về mưa bên ấy gởi hạt ân cần thăm người năm cũ gởi hạt mưa gầy rơi trên má ai hạ đỏ Phượng xưa những chiều…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: