Khởi đi từ năm 1936 và kết thúc ngày 1-4-1939 với thắng lợi của phe Quốc Gia do tướng Franco đứng đầu, Nội Chiến Tây Ban Nha là một cuộc chiến vô cùng đẫm máu với thương vong nặng nề của cả hai bên. Sự thảm bại của phe Cộng Hòa đã khiến Tây Ban Nha không trở thành một nước Cộng Hòa Nhân Dân.
Bối cảnh của tiểu thuyết “Chuông Nguyện Hồn Ai” (của Ernest Hemingway) chính là cuộc nội chiến này.
* * *
Một buổi chiều năm 1936, đang ngồi nhâm nhi tại một lữ quán, tôi thấy lù lù bước vào một gã đàn ông tuổi độ bốn mươi, dáng người chắc nịch với đôi mắt mở to. Gã mang theo một máy ảnh Kodak. Thấy tôi ngồi một mình, gã sà vào ngồi đối diện sau khi gọi một cốc bia.
– Chắc ông là người ngoại quốc. Nhìn bộ dạng của gã, tôi hỏi bằng tiếng Anh.
– Đúng vậy, tôi từ Mỹ tới. Gã mau mắn đáp. Tôi là Ernest Hemingway, làm phóng viên cho tờ Liên Minh Báo Chí Bắc Mỹ. Tôi đến đây để viết về cuộc nội chiến vừa khởi phát. Tôi cho rằng phe Cộng Hòa sẽ chiến thắng. Tôi ủng hộ tư tưởng cải cách của họ và không ưa gì bọn có đầu óc phát xít, những kẻ bảo hoàng…
Tên người Mỹ đang huyên thuyên thì bia được mang tới. Tôi tức thì cầm lấy cốc bia hắt vào mặt gã, hét to:
– Tao theo Franco. Nếu phát xít nghĩa là chống lại bọn bách đạo, bọn khủng bố thì tao cũng là phát xít. Cút mẹ mày đi!
* * *
Trong cuộc tuyển cử Tháng Hai năm 1936, Mặt Trận Bình Dân giành được đa số ghế trong Quốc Hội. Đây là một liên minh gồm đảng Xã Hội và các đảng Cộng Hòa, đảng Liên Minh Cộng Hòa, đảng Cộng Sản Tây Ban Nha. Mặt Trận Quốc Gia chỉ về thứ hai. Thủ lĩnh của đảng Xã Hội, Largo Caballero, được báo Sự Thật của Liên Xô gọi là “Stalin của Tây Ban Nha.” Ông ta tuyên bố cách mạng là điều không thể tránh khỏi. Cái mà ông ta gọi là cách mạng chính là biến Tây Ban Nha thành một “Cộng Hòa Nhân Dân” kiểu Liên Xô, một mục tiêu được lặp lại nhiều lần trong chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản cũng như trong các tuyên bố chính thức của đảng Cộng Sản Tây Ban Nha.
Việc một kẻ quá khích như Azana trở thành tổng thống đã vấp phải sự chống đối của nhiều tầng lớp, đặc biệt là giới tướng lãnh đứng đầu là Francisco Franco. Tây Ban Nha rơi vào tình trạng vô cùng căng thẳng. Những kẻ cấp tiến trở nên hung hăng còn những người bảo thủ sử dụng lực lượng bán quân sự và cảnh vệ. Hai bên giết chóc lẫn nhau. Hàng trăm người bị ám sát, hàng ngàn người bị thương trong những vụ bạo lực liên quan tới chính trị, nhiều cơ sở tôn giáo bị phá hủy…
Nổi bật trong thời kỳ này là Calvo Sotelo, một người yêu nước và là thủ lĩnh của nhóm đối lập trong nghị viện. Ông cực lực chống lại sự khủng bố tôn giáo, sự sung công tài sản và những cải cách ruộng đất vội vã mà ông cho là sặc mùi Bolshevik và chủ nghĩa vô chính phủ. Việc ông bị ám sát bởi những bàn tay nhơ nhớp vào ngày 13 Tháng Bảy năm 1936 đã châm ngòi cho cuộc nội chiến. Bao hằn thù dân tộc giờ chỉ có thể giải quyết bằng súng đạn, một mất một còn…
* * *
Khi Nội Chiến bùng nổ, tôi đang là chàng sinh viên một trường mỹ thuật. Thế giới của tôi lúc ấy là hội họa. Ngoài hội họa tôi chẳng mấy quan tâm chuyện gì khác. Nhưng rồi một biến cố đã khiến tôi thay đổi tất cả. Đó là cái chết của chú tôi, một linh mục cả đời tận tụy. Ông đã bị bọn Cộng Hòa sát hại một cách dã man. Ông là người đã hết lòng nâng đỡ tôi trên bước đường nghệ thuật. Bố mẹ tôi nghèo lấy tiền đâu nuôi tôi ăn học đàng hoàng.
Khi phát hiện tôi có khiếu hội họa, người chú linh mục lo cho tôi mọi thứ, mong tôi trở thành nhà danh họa sau này. Vậy mà…
Trong nỗi đau tột cùng, tôi quyết định lên đường tòng quân, trở thành người lính dưới lá cờ chính nghĩa của tướng Franco. Tôi nhớ mãi lần ông tới thăm binh đoàn chúng tôi. Ông nói với chúng tôi những lời đầy xúc động:
– Hãy dũng cảm quên mình. Vận mệnh tổ quốc nằm trong tay các bạn.
Cuộc nội chiến này không đơn thuần là cuộc chiến giữa những người Tây Ban Nha với nhau. Nó còn là cuộc đọ sức giữa những thế lực ngoại quốc kình chống nhau. Trong cuộc chiến này cả hai phe Quốc Gia và Cộng Hòa đều nhận được sự trợ giúp từ nhiều nước. Những người Quốc Gia chúng tôi không bao giờ quên ơn sự hỗ trợ kịp thời về tài chính cũng như quân sự mà Đức, Ý dành cho chúng tôi. Ngoài máy bay, xe tăng và nhiều loại vũ khí khác, Đức và Ý còn gởi tới chúng tôi nhiều binh đoàn tình nguyện, lúc đỉnh điểm lên tới ngót 80.000 người. Trong khi đó phe Cộng Hòa cũng nhận được rất nhiều viện trợ từ phía Liên Xô, về khí tài cũng như cố vấn. Đặc biệt họ còn được giúp sức từ các “Lữ đoàn quốc tế” chừng 3 vạn người đến từ hơn 50 nước để trợ chiến. Trong mắt những người Quốc Gia chúng tôi, cái gọi là “Lữ đoàn quốc tế” chỉ là bọn hấm hớ, ham vui.
* * *
Ngày 21 Tháng Bảy năm 1936 lực lượng Quốc Gia mở đầu cuộc nổi loạn của mình bằng việc chiếm được căn cứ hải quân chính tại Ferrol, tây bắc Tây Ban Nha. Đầu Tháng Mười đại tá Alfonso Canet đánh chiếm Irun và đóng cửa biên giới với Pháp nhằm cô lập các tỉnh theo phe Cộng Hòa ở phía bắc Tây Ban Nha. Trước đó một tuần, ở phía nam lực lượng Quốc Gia dưới sự chỉ huy của tướng Franco đã giải vây được Alcazar sau hàng tháng trời bị quân Cộng Hòa vây hãm. Đây là đòn giáng mạnh vào uy tín của phe Cộng Hòa vì họ vượt trội về quân số tại đó. Chỉ trận này thôi cũng thấy tài cầm quân của tướng Franco. Ông thường nói: “Hãy để mọi nẻo đường của Tây Ban Nha ngập xác quân thù.”
Tuy nhiên cuộc tiến công của chúng tôi vào Madrid không được như ý vì địch kháng cự rất quyết liệt. Phía chúng tôi bị thiệt hại khá nặng. Nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh. Tôi đặc biệt nhớ Gonzalez. Lúc đó cậu ta mới mười bảy và là con duy nhất của một bà mẹ góa. Mẹ nó sẽ buồn biết chừng nào nếu biết nó không còn nữa. Tôi cũng nhớ Jimenez. Anh ấy chơi guitar rất giỏi. Những lúc nghỉ ngơi Jimenez thường ôm đàn chơi những bản độc tấu của Francisco Tarrega, Fernando Sor… Có lần anh bảo sau này hết chiến tranh anh sẽ vào học ở Nhạc viện Madrid. Anh mơ trở thành một guitarist có hạng như Segovia. Vậy mà…
Bước sang năm 1937 quân Quốc Gia chiếm được Malaga vào Tháng Hai. Cuối Tháng Tư quân của tướng Franco lại chiếm được thị trấn Guernica thuộc xứ Basque, hai ngày sau khi nơi này bị máy bay Đức dội bom tơi bời.
Trên đà chiến thắng, tướng Franco tiếp tục mở cuộc tiến công Aragon vào Tháng Tám và chiếm thành phố Santander. Sau mấy tháng giao tranh ác liệt, Gijon cũng rơi nốt vào tay quân Quốc Gia. Như vậy xem như miền bắc đã được hoàn toàn giải phóng. Trận Gijon, tôi nhặt được một cuốn nhật ký trong ba lô của một xác thù. Tôi đọc thấy trong đó những dòng đầy phân vân rằng liệu phe Cộng Hòa của anh ta có chính nghĩa hay không.
Cũng thời gian đó, Tòa Thánh Vatican quyết định công nhận chính phủ của tướng Franco. Sự công nhận này càng nhấn mạnh một điều rằng chính nghĩa thuộc về chúng tôi, những người Quốc Gia chứ không phải bọn Cộng Hòa.
Sang năm 1938 nhiều trận đánh lại nổ ra giữa hai phe. Phe Cộng Hòa chiếm được thành phố Teruel vào Tháng Giêng nhưng chỉ một tháng sau quân Quốc Gia đã chiếm lại được. Hai tháng sau, trong khí thế bừng bừng, quân Quốc Gia chọc thủng mọi tuyến phòng thủ của đối phương, tiến ra Địa Trung Hải, cắt làm đôi phần lãnh thổ do phe Cộng Hòa kiểm soát. Lần đó, giữa ngổn ngang xác thù, tôi thấy nằm chơ vơ một chiếc máy ảnh hiệu Kodak hao hao chiếc máy của Hemingway. Biết đâu đó chính là chiếc máy ảnh mà ông ta đánh rơi trong lúc tháo chạy.
Trong vòng bốn tháng, từ Tháng Bảy tới Tháng Mười Một năm 1938, phe Cộng Hòa dốc toàn lực trong trận Ebro nhưng thất bại. Mọi nỗ lực tuyệt vọng của chúng đều bị quân Quốc Gia đập tan. Bọn Cộng Hòa phải rút lui khỏi Ebro. Cuộc chiến sắp tới hồi kết thúc. Việc phe Cộng Hòa giơ hai tay đầu hàng chỉ là vấn đề thời gian. Cái thòng lọng đang dần siết chặt cổ chúng.
Năm 1939, năm cuối cùng của cuộc chiến. Từ Tháng Một tới Tháng Tư, các thành lũy cuối cùng của bọn Cộng Hòa lần lượt thất thủ, từ Catalonia tới Tarragona, từ Barcelona tới Girona, từ Madrid tới Valencia… Tướng Franco tuyên bố chiến thắng cho dù địch vẫn còn vài ổ kháng cự lẻ tẻ.
Chúng tôi tự hào vì mình đã chọn con đường đúng. Chúng tôi đã đi và chúng tôi đã đến. Chính nghĩa đã chiến thắng.
* * *
Thật nực cười khi tới giờ này vẫn còn có kẻ chỉ trích phe Quốc Gia đã cư xử bạo tàn trong chiến tranh. Dường như những kẻ ngu ngốc đó cố tình quên rằng phe Cộng Hòa thực ra còn bạo tàn hơn rất nhiều:
Hàng ngàn linh mục, tu sĩ, giáo dân… bị chúng giết hại; hàng trăm hàng ngàn các nhà thờ, tu viện… bị chúng đốt phá; những người dân chống lại đều bị chúng đàn áp dã man. Chúng còn giết chóc cả những người không cùng lý tưởng cho dù họ đang chiến đấu cho chính phe Cộng hòa.
Trong quyển “Chuông Nguyện Hồn Ai” của mình, Ernest Hemingway dù xem phe Cộng Hòa là chính nghĩa vẫn có những dòng viết về một nhóm Cộng Hòa đã đánh tất cả các thành viên nam giới của phe Quốc Gia bằng những chiếc đập lúa rồi vất xác họ qua vách núi. Có những cái chết đáng tiếc như trường hợp nhà thơ Garcia Lorca. Ông ta bị một nhóm dân vệ theo Quốc Gia chặn bắt rồi xử bắn vào một ngày hè năm đầu tiên của cuộc chiến khi đang trên đường trở về Granada. Biết làm sao được. Ông ta đã chọn con đường sai lầm thì phải trả giá, thế thôi.
Lại có nhiều người cho rằng sau Nội Chiến, tướng Franco đã đàn áp nghiệt ngã những kẻ chống đối cũ, rằng ông bỏ tù hoặc hành quyết hàng trăm ngàn người … Theo tôi, Franco làm thế là đúng. Thậm chí như thế vẫn còn nhẹ tay. Đã là tội phạm thì phải đền tội. Đó là kết cục cần có đối với bọn phản quốc,bọn bách đạo, những kẻ nhân danh nhân dân nhưng lại bóp cổ nhân dân.
Trong mắt chúng tôi, tướng Franco mãi mãi là anh hùng dân tộc. Ông đã dẫn dắt chính nghĩa Quốc Gia tới thắng lợi cuối cùng và cũng chính ông đã biến đất nước Tây Ban Nha từ đống tro tàn của chiến tranh trở thành một cường quốc được thế giới nể vì. Ông thực là người cha, là linh hồn của nước Tây Ban Nha hiện đại. Ông xứng đáng với mọi lời ca tụng đẹp đẽ nhất.
Sẽ không quá lời nếu gọi ông là vị thánh. Hãy tưởng tượng xem, nếu phe Cộng Hòa là kẻ chiến thắng thì ắt hẳn giờ này Tây Ban Nha chỉ là một nhà tù khổng lồ, một ổ chó không hơn không kém.
***
Khi tôi đang viết những dòng hồi tưởng này thì nhận được tin ở nước Mỹ xa xôi, Ernest Hemingway vừa tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng săn.
Có bài báo cho rằng ông ta chọn cái chết như thế vì không chịu nổi những cơn hành hạ triền miên do bệnh tật gây ra. Lại có ý kiến cho rằng nguyên do là vì ông ta nổi cơn điên loạn nên không còn kiểm soát được lý trí…
Nhưng theo tôi, Hemingway làm thế rất có thể là để tự trừng phạt mình vì những sai lầm đã phạm trong quá khứ. Việc ông ta ủng hộ bọn Cộng Hòa biết đâu chính là một trong những sai lầm đó.
Thực lòng, tôi chẳng mảy may xúc động trước cái chết của ông ta, kẻ đáng bị hắt cốc bia vào mặt.




























