Bây giờ là những ngày hạnh phúc của Vân. Mỗi sáng được ôm cặp đi học như ngày nào, chỉ khác là không có người yêu để vào hội quán Văn hay vào thư viện thôi.
Buồn cười, Vân nhớ lại lần đầu tiên hai đứa hẹn gặp nhau ở trường. Nàng ngồi học mà không yên, hồi hộp, sốt ruột. Vân không biết đưa chàng đi đâu vì ngại tụi bạn chọc ghẹo, nên đưa vào thư viện. Thế là chàng trở thành cây đinh nơi đó, chỉ vì anh chàng đi học phải mặc đồ lính màu vàng của sinh viên quân y. Eo ơi! Nàng thẹn đỏ cả mặt. Ngày ấy cô nàng còn ngu ngơ quá, kỷ niệm ngày nào như mới đây, hai đứa thật dễ thương, mấy đứa bạn theo khen mãi.
Sau ngày tang thương của miền Nam. Và cho đến ngày học khóa sư phạm này, Vân gặp lại khá đầy đủ mấy đứa bạn xưa ở trường. Bọn chúng còn nhớ cuộc tình của Vân và hỏi thăm chàng. Thật không ngờ cả bọn lại thân ái cùng chui vào Bộ Giáo Dục. Nhờ thế lớp học rất thân mật và vui nhộn, và có lẽ Vân là người nổi bật nhất nhờ cuộc tình đẹp đẽ ấy. Nhờ thế mà nỗi buồn vì đất nước, gia đình, và bạn bè, cùng thành phố thân yêu đã thay đổi thảm khốc ấy, được nguôi ngoai.
Lớp dành cho các giáo chức, và nhân viên của Bộ Giáo Dục có đủ tiêu chuẩn. Chương trình học dành cho trường phổ thông cấp I vì đang thiếu trầm trọng giáo viên. Vân và các bạn tình nguyện ghi tên học, vì muốn có việc làm nhanh, không bị ngồi chờ suốt nửa năm nay. Vấn đề quan trọng của nàng là không bị học nhiều về môn chính trị như giáo viên trường cấp hai, vì các giáo điều chủ nghĩa CS làm mình đau đầu khó nuốt.
Lớp học tại Bộ Giáo Dục nên thoải mái và vui vẻ, vì cảnh và người đã quen thuộc. Giảng viên là những cán bộ đã tiếp thu bộ và các nha sở từ sau ngày 30-4, nên người cũ và mới khá quen nhau rồi. Nhờ đó họ giảng bài rất sống động, vui tươi và dễ hiểu, khiến bọn Vân say mê theo dõi, chỉ có hai ngày đầu về chính trị làm bọn Vân nghe không vô. Những ngày sau là các môn ngữ văn, khoa học thường thức và toán. Và cấp một phải học cả vẽ và nhạc nữa.
Vân và các bạn đi học cả ngày nên buổi trưa ở lại. Có hôm nàng mang cơm theo, có hôm ăn ngoài phố với các chị bạn. Hôm đầu ra phố Sài Gòn tìm quán các “quán cóc” để ăn trưa, Vân ngại ngùng khó mà ăn ngon miệng. Nhưng nghĩ đến sau này “bước xuống cuộc đời” rồi, vấn đề ăn uống sẽ thông qua một cách dễ dàng, vì thời gian sẽ dành cho lớp học nhiều hơn. Nhất là nghĩ đến giờ này người yêu đói no ấm lạnh thế nào, rồi nàng không thiết gì đến điều phiền toái này nhiều nữa. Và Vân ăn uống thoải mái ở các quán trên các vỉa hè Sài Gòn, vì sau ngày đổi tiền dân chúng nghèo quá, quán mọc nhiều như nấm.
Vân bắt đầu thấy thích dạy cấp 1, vì nàng rất yêu trẻ. Chúng ngoan và dễ uốn nắn, cử chỉ rất ngây thơ hơn trẻ cấp hai. Sau này nghe các bạn nói về các khó khăn khi dạy cấp hai, Vân mừng thầm rằng mình đã chọn đúng con đường cho mình đi: không cần danh vọng, mà chỉ cần yêu thương.
Điều quan trọng là dạy trẻ cấp vỡ lòng này là bước đầu tiên khai mở những trí óc non nớt và tương lai chúng có lẽ một phần ở nơi giáo viên dạy có tế nhị hay không. Vấn đề khó khăn nhất là chương trình chuyển tiếp cũ và mới, làm sao cho học sinh tiếp thu được đầy đủ là cả một nghệ thuật.
Ngoài triết lý của xã hội mới này, Vân cũng phải biết những công việc ở thôn quê, tìm hiểu những phương pháp để ứng dụng vào đời sống thực tế nơi đó.
Rồi cũng đến ngày cuối khoá, các học viên làm bài tổng kết. Ban giám khảo chấm điểm và tùy theo số điểm,mà các giáo viên sẽ nhận việc gần nhà hay xa. Đây là thời điểm hồi hộp vô cùng, vì suốt nửa năm “họ” cho bọn Vân ngồi không xơi nước, vì tiền lương bị ngắt mất một nửa. Bây giờ nhận việc mới không do mình chọn, chỉ còn trông mong vào may mắn mà thôi. Cuối cùng kết quả danh sách đã niêm yết, kẻ khóc người cười như dạo còn đi thi của thời thơ ngây áo trắng.
Nhưng bây giờ sau mấy mươi năm, ngồi viết lại Vân mới hiểu rằng ngày ấy mình học lý thuyết thì dễ nhưng thực hành thật là khó, vì một người sanh trưởng ở thành phố lớn, khó mà sống lam lũ như dân quê, làm sao họ bắt giáo viên phải tìm phương pháp ứng dụng vào đời sống nơi đó thành công được? Vì nàng cũng đã hoà đồng với dân chúng rồi mà chỉ là cố gắng thôi, nó không thể là máu được. Nên chế độ con cóc muốn làm con bò ấy chỉ làm dân đau khổ mà thôi.
Đời sống mỗi ngày mỗi mới, nhưng với Vân mỗi ngày đời sống mình nhỏ bé hẳn lại. Bạn bè và người yêu đã vì cuộc “đổi đời” này mà chia xa, cho đến những đứa bạn học cùng khoá bồi dưỡng nghiệp vụ cấp tốc này, cũng bị chia nhau đi mỗi đứa mỗi ngả.
Vân và hai bạn được may mắn nhất, về vùng Cần Giuộc (*), chỉ cách Sài Gòn hơn ba mươi km. nhưng dạy khác xã. Phụng và Hoa dạy vùng hạ, xã Đông Thạnh và Phước Lại xa ngút ngàn, phải qua sông đi đò. Vân được về vùng thượng tốt nhất, vì gần đường đón xe về Sài Gòn, cách chợ Cần Giuộc chỉ bảy km. Nhưng dạo ấy xã hội đã thay đổi, đường đi lại quá nhiêu khê. Mỗi lần phải mua vé xe đò, đi xa thành phố là khổ cực trăm chiều.
Sợ ma
Ngày đầu Vân đến trường nhận lớp, một bóng chênh vênh nơi góc trời xa lạ, mông mênh ruộng đồng, nàng nghe bước chân mình xiêu lạc ưu phiền. Đời có mấy người thân?
Nhưng rồi ấn tượng tốt đẹp đầu tiên của nàng ở môi trường mới, là lòng tốt của các bạn trẻ đồng nghiệp: anh Thứ (hiệu trưởng), anh Soài (bình dân học vụ), và các giáo viên Lý, Nhàn và chị Thảnh, chị Bẩy… Ngôi trường nhỏ bé, chỉ có bốn lớp học, mái tôn và tường vôi trắng trống trải nhưng thoáng mát, giữa đám ruộng đang mùa khô, đất nứt nẻ trông càng thêm hoang vắng.
Vân mới về ở đây, buổi chiều dạy xong, học trò vừa tanm mặt trời lặn dần, hoàng hôn nhạt nhoà. Ôi, chiều về trên ruộng đồng buồn mông mênh. Vì chưa quen ở vùng quê thiếu tiện nghi, lại một mình xa nhà, Vân phải chịu đựng nỗi sợ ma khi màn đêm trở về, chỉ có ánh đèn dầu leo lét, tù mù chiếu không đủ sáng. Nàng sợ ma, vì ở đó nổi tiếng là ngã ba Vĩnh Biệt chứ không như tên thật đẹp của nó là “ngã ba Vĩnh Nguyên.” Vân nghe kể lại ngày trước, quân đội Cộng Hoà mình đi hành quân đến đây, thường bị du kích V.C. phục kích chết nhiều nhất. Vì vậy Vân càng sợ ma hơn.
Đêm đầu tiên đến nàng không ngủ được, đêm thật dài, có buồn tiểu cũng không biết đi đâu.
Vân ngủ chung với chị Thảnh và Lý, hai người đã ở trọ tại trường từ trước. Giường ngủ là mấy cái bàn học trò khá cao kê sát lại. Tối ngủ Vân chui vào kẹt màn nằm mà vẫn còn sợ. Buổi sáng nằm nghe chim hót gọi thức dậy, nàng mừng vô cùng. Nhìn lên mái nhà có mấy tổ chim, mỗi sáng chúng hót líu lo thật tuyệt vời, nhưng buổi tối nàng vẫn sợ.
Qua được một đêm là mừng một đêm…
Nhiều khi sợ quá Vân muốn bỏ về nhà để tha hồ ăn uống đầy đủ, bù lại những ngày thèm ăn ở trường. Dần dần nàng mất cả hứng thú của lần mới đến. Nàng thấy mệt mỏi và chán nản đến nổi không còn thấy thương đàn trẻ dại khờ kia. Nhưng rồi nghĩ lại thấy mình là người may mắn, được nơi dạy tốt hơn bao nhiêu bạn khác, đã phải đi xa hàng trăm cây số và chịu rất nhiều khó khăn, đến nổi phải bỏ việc, về Sài Gòn bán khoai bắp, thì tang thương hơn mình nhiều. Thế là nàng vui lại để cố gắng đi tiếp.
Ban đêm Vân sợ ma, và cũng sợ người nữa. Ban ngày khổ vì thiếu nước ngọt dùng, vì trước kia chiến tranh vấn đề đô thị hoá chưa thi hành được, dù ở đây có rất nhiều sông rạch nhưng tất cả đều bị nhiễm mặn do gần biển Đông, lại nhiều phèn nên nước không uống được. Nếu đóng giếng phải thật sâu cả trăm mét nước mới dùng được.
Ngày ấy do chiến tranh, đa số dân nghèo lo làm ruộng đủ ăn, nói gì đến cái giếng xa xỉ ấy. Nhà nào cũng có nhiều lu, khạp to nhỏ để hứng nước mưa và nước ngọt từ xe hàng ở Sài Gòn đem đến bán. Các nhà gần lộ khi xe nước đến, họ mua trữ vào các thùng phi to để bán lại cho dân từ các ấp xa xôi đi cả buổi mới đến nơi, gánh về. Vì vậy nhiều nhà đào ao nuôi cá, vịt và dùng nước ấy để rửa ráy. Trường học có một cái lu sành vừa đủ to để hứng nước mưa và chứa nước ngọt cho các giáo viên dùng.
Trường thuộc xã Long An, cách chợ Cần Giuộc gần bảy km. Từ đường lộ chính vào đến trường hơn nửa cây số. Con đường đất cao chạy dài ngút ngàn vào tận các ấp xa mênh mông. Vì vậy các giáo viên ở trọ tại trường thường “tu tiên,” nhưng chưa bằng đám học trò nhỏ nghèo nàn thiếu ăn, thiếu mặc, xa hẳn ánh sáng văn minh, trông chúng ngờ nghệch đến tội kia. Nhìn đám trẻ bé bỏng áo quần mỏng manh dơ bẩn, đứng quanh gánh quà rong nghèo nàn của dì Tám bán trước trường với đôi mắt đói thèm, làm Vân xót xa. Làm sao cho lớp trẻ này thoát khỏi đời tăm tối từ muôn kiếp của ông cha chúng để lại? Nàng hay nghĩ đến điều ấy rồi buồn.
Dần dần Vân mới biết đời sống dân quê tuy nghèo nhưng lại đậm đà tình nghĩa rất đáng quý. Cũng như các ông say rượu là chuyện thường. Hôm Vân đang ngồi nấu cơm, bỗng có một ông say lè nhè, cứ đi thẳng vào trường không xin phép gì cả, làm Vân giật mình. Ông nói chuyện thật thà đến ngây ngô, làm nàng thấy mến ông. Trước khi về, ông hứa cho củi các thầy cô dùng vì đã dạy học con của ông.
Đến lúc ngồi ăn cơm tối, có Thứ ở lại cùng ăn, thì lại có một ông say nữa ghé vào trường, và cứ đi thẳng tuột vào trong vì cửa phòng luôn mở. Lần này là chú Sáu thầy thuốc, đã xem bói cho các cô giáo hôm trước. Chú nói chuyện tếu quá làm cả bàn đang ăn mà cứ cười muốn pể bụng. Vân và Lý bấm tay nhau ra hàng hiên để cười cho đã.
Chú Sáu có hàm răng sún trông ngồ ngộ, vui vui nên khi nói chuyện lại càng tếu hơn. Ông nhất định đòi các cô phải nấu cháo vịt ngay tối đó, làm ai cũng giật mình vì đã dùng cơm no quá rồi. Không ngờ ông xách con vịt qua cho thật, khiến bọn Vân cảm động, ông thật thà và có ăn học. Vân thầm cảm ơn ông đã cho mình những nụ cười tự do, thỏai mái, cười đến đau bụng. Nhưng phải khất ông ta đến tối mai mới nấu cháo vịt này được.
Chiều hôm sau ăn cháo chay xong, tối đến chị Thảnh lại làm con vịt ấy. Chị làm vịt rất giỏi và nấu một nồi cháo ngon tuyệt cú mèo. Thứ cũng có mặt và anh Soài đã sang trường ở ấp Long Đong về tối quá, phải ở lại cùng ăn. Lúc ăn, mấy đứa đùa giỡn giành nhau đĩa nhiều và ngon, làm cả bọn cười từng tràng dài như đám hội. Hạnh phúc nhỏ nhoi ấy chỉ là một con vịt trong thời thiếu ăn này thôi.
Trong trường có Lý và Nhàn bé hơn Vân một tuổi, nhưng rất già dặn. Lý đẹp mặn mà, nước da bánh mật, má lúm đồng tiền và mắt biếc môi xinh, thật xứng đôi với chàng “babylac” Thứ này. Nhưng không phải như vậy, vì anh ta vẫn vô tư và đứng đắn với các nữ giáo viên. Hình như Lý còn đang gieo cầu, ai đây?
Nhàn thua kém mọi người về nhan sắc. Cô ta có đôi mắt buồn khá đẹp, nhưng nụ cười ẩn chứa cái tâm không thiện lành. Thỉnh thoảng Nhàn ngồi buồn bã nhìn ra cánh đồng hoang vắng, hát nghêu ngao mấy bài ca thất tình rất “sến.” Thỉnh thoảng nó đưa ánh mắt long lanh si tình nhìn Thứ thật tha thiết… Ôi, cả bầu trời đau khổ.
Thứ cũng khá lịch sự, nhưng lúc đầu Vân ngại ngùng rất giữ ý. Khi quen khá thân, nàng xem anh ta như trong gia đình, dù thật ra không thể nào là anh hay chị em được, vì nhiều khi Vân nhìn thẳng vào đôi mắt vô tư đó, nàng bắt gặp một tia lửa ấm êm đềm. Vân nghĩ điều ấy đã sai lầm. Nhưng nhờ đó, nàng phát giác ra lý do tại sao Lý và Nhàn ngầm ganh tỵ với mình như vậy.
Ôi, chỉ vì Vân mãi sợ ma mà không để ý đến chuyện này. Tuổi trẻ vô tư nên cũng chẳng là vấn đề, nếu mình giữ lòng trong sáng.
Tối hôm ấy cả bọn ngủ cũng vui, anh Soài và Thứ ngủ trấn cửa phòng cho các cô bên trong. Khuya năm giờ cả bọn dậy đi cúng bên chùa, thấy Lý và chị Thảnh còn ngủ. Vân gọi: “Hỡi các con chiên ngoan đạo.” Làm cả bọn bật cười vui vẻ.
Cúng sáng thật siêu thoát, nhưng rồi Vân cứ… sợ ma.
(*)Huyện Cần Giuộc nổi tiếng về các cuộc nổi dậy trong thời chiến, và ngã ba Vĩnh Nguyên nằm trong địa bàn ấy. Vùng hạ có 7 xã, đất thấp hơn mặt biển nên nhiễm mặn nhiều hơn vùng thương, nhưng tiện cho nghề nuôi tôm, cá, đi ghe. Vùng thượng có 9 xã, đất cao hơn mặt biển khoảng 1 mét, nên đất tốt hơn trồng hoa mầu và làm ruộng 2 vụ mùa, có lúa nàng Thơm, nàng Chá, bán ở chợ Đào, nhưng rất khó mua được đúng gạo nàng Hương.
(Kỳ tới: Bước xuống cuộc đời – Lớp bình dân học vụ)




























