Buổi sáng cuối tuần nào, hắn cũng ra quán cà phê quen thuộc ở thành phố Westminster. Ngồi cả ngày dưới bóng cây dù trước quán, nắng dọi nghiêng tới đâu hắn xoay quanh tới đó. Nhiều hôm không có ai quen ra quán, hắn cũng vẫn ra ngồi đấy cho đến xế trưa. Trước khi hắn rời quán, hỏi hắn đi đâu, hắn trả lời:
– Đi loanh quanh ra phố Bolsa.
Rồi hắn đi thật, đi lững thững ra ngoài bãi đậu xe lái chiếc xe Camry đời cũ, chạy chậm, khói xe bay mù mịt. Có hôm nghe tiếng đề máy kêu thật to, đề hoài mà không thấy nổ. Hắn trở vô quán cười nói “may mà không chết máy dọc đường.” Sau đó hắn gọi cho con gái, chờ xe tow đến câu xe ra shop sửa chữa. Xong xuôi, hắn đi bộ ra bến xe buýt chờ chuyến về nhà. Cũng chậm rãi bình an vô sự.
Ngày thường hắn có công việc chính là đưa rước cháu ngoại đi học. Đúng giờ và cẩn thận, lái xe an toàn. Chăm sóc mấy đứa nhỏ cho đến chiều cha mẹ chúng đến rước. Khoảng giờ trống hắn thường ra mấy quán dọc phố Bolsa ngồi chờ đọc báo hoặc kiếm bạn tán dóc. Vậy thôi.
Đi đâu, ở chỗ nào hắn cũng khoác chiếc áo ghi-lê bốn túi màu ka ki cũ bạc màu trắng thếch. Đầu đội mũ phớt vành nhỏ cũng màu ka ki. Ít khi hắn dở nón ra, chỉ trừ khi chào cờ, mặc dù tóc vẫn còn dày bạc muối tiêu nhưng chưa hói. Hắn luôn đeo cặp kính gọng đen màu hơi nhạt, có dây ràng chặt phía sau gáy. Hắn làm quen với tất cả mọi người. Thích ngồi nghe kể chuyện cũ, ít khi tranh luận chuyện thời sự. Thỉnh thoảng cũng pha chuyện với bạn. Ai rủ đi đâu hắn theo đó. Hội họp hay cầm cờ đi biểu tình hắn đều tham gia, nhưng không phát biểu hay la to theo khẩu hiệu, mà chỉ lẳng lặng theo đoàn người đi quanh phố cho đến khi cuộc biểu tình giải tán.
*****
Hắn sang định cư Hoa Kỳ theo diện HO1 đến nay cũng gần 30 năm, làm đủ ngành nghề. Hồi mới sang đây với một vợ hai con, hắn được giới thiệu sang trung tâm dạy nghề ở San Pedro để học nghề lắp đặt, sửa chữa đường ống dẫn nước. Ra trường, ban đầu làm cho một công ty plumping của người Mỹ da trắng. Sau vài năm, hắn tách ra và mở một công ty nhỏ làm riêng cũng khá, nhưng than cực muốn chuyển nghề, qua làm thư ký ở văn phòng kế toán của một người bạn.
Sau đó, đúng vào lúc nhà cửa trong vùng người Việt tị nạn giá cả lên cao, hắn lại đi học ngành địa ốc và trở thành chuyên viên mua bán nhà cửa. Gần 10 năm trong nghề, hắn thành thạo và có uy tín trong cộng đồng người Việt, nhưng cũng không khá lắm. Cho đến khi đứa con trai út lập gia đình ra riêng, hắn mới thôi việc, nghỉ hưu non. Không biết có buồn gì hay không về việc thằng con trai sanh đẻ tại Mỹ, lớn lên học hành thành công, lại về Việt Nam ra tận ngoài Hà Nội lấy vợ.
Hai đứa con gái lớn tốt nghiệp bác sĩ, ra trường làm việc tại Quận Cam và đã lập gia đình riêng – một với người Mỹ da trắng, một với người Đài Loan. Hắn có cháu ngoại đầy đàn đủ cả trai lẫn gái.
Vợ hắn lúc mới qua Mỹ có người chị ruột, qua đây hồi cuối Tháng Tư 1975, giúp đỡ mở một shop may làm ăn cũng khá. Công việc ở shop bề bộn. Cô ấy rất giỏi, vừa lo tươm tất việc nhà vừa chăm sóc các con chu đáo, đưa rước đi học suốt cho tới khi chúng lên đại học. Tử vi của hắn cung mệnh chính diệu thiên mã và thân cư thê. Thầy tướng số nói vậy. Hắn tin là thật.
*****
Ngược về hồi năm 1954, khi mới lên năm, hắn theo gia đình di cư vào Nam. Ban đầu tạm trú tại các trại tỵ nạn, sau đó di chuyển khắp nơi và cuối cùng về lập nghiệp ở xóm Bến Đò gần chợ Thạnh Trị, Mỹ Tho. Lúc bấy giờ, người Bắc di cư thường hay định cư tại các khu dinh điền do chính phủ lập ra, hoặc quần tụ nhau thành từng khu riêng ở các thành phố lớn gần Sài Gòn, Biên Hòa. Ít có gia đình nào dời đi lẻ tẻ ở các địa phương trong Nam. Gia đình hắn là gia đình người Bắc duy nhất ở chợ Thạnh Trị. Cả xóm không ai biết gia chủ tên gì, nên chỉ quen miệng gọi là ông Tư Bắc.
Khi mới về đây, ngày nào ông Tư cũng cỡi xe đạp có gắn thùng đồ nghề cồng kềnh phía sau xe đi vòng quanh các xã ven ngoại thành, làm nghề gò thùng tưới nước rẫy cho dân quê. Sau này khi có nhiều khách quen, ông mở sạp ở chợ Thạnh Trị chuyên mua bán, sửa chữa thùng tưới cho cả vùng từ Tân Hiệp cho đến Chợ Gạo. Nhà đông con trai, khách hàng lại nhiều và buôn bán đắt nên ngoài giờ học, tất cả các con đều phụ giúp ông. Công việc làm ăn ngày càng phát đạt, ông mua nhà ngay phố chợ và lập tiệm “Kiến An” mua bán đồ hàng sắt, thiếc. Sau này mua bán thêm đồ phụ tùng máy bơm nước. Chỉ trong vòng mười năm, gia đình ông thuộc hàng giàu có ở khu phố. Sinh hoạt gia đình rất nề nếp, con cái học hành đàng hoàng, thành đạt.
Hắn là con trai thứ ba trong gia đình, học hành rất giỏi luôn lãnh phần thưởng ưu hạng ở trường. Trong lớp chỉ có mỗi mình hắn là nói tiếng Bắc khó nghe. Bạn bè hay châm chọc “Bắc kỳ ăn cá rô cây…”, “dân rau muống”, nhưng hắn vẫn vui vẻ và không bao giờ tập pha tiếng Nam trong cách tiếp xúc, vẫn giữ giọng chuẩn Hà Nội. Hắn nói với chút tự hào. Theo lời ông Tư, hắn là đứa gò hàn khéo nhất nhà. Có cơ sẽ nối nghiệp ông.
Tự thân hắn rất ít nói. Một phần gia đình người Bắc quan hệ rất hạn chế, dè dặt. Phần khác người địa phương không nói ra, nhưng cũng hay kỳ thị chê bai lối sống tằn tiện, ít tham gia ăn nhậu phóng đãng, nên hàng xóm ít khi mời mọc giỗ chạp. Khi di cư vào Nam, hầu như gia đình nào cũng lo làm ăn buôn bán, xây dựng cơ ngơi vững chãi, hiếm khi tụ tập thành băng nhóm ăn nhậu hay làm điều phạm pháp.
Cả thành phố Mỹ Tho, ngoại trừ người Hoa tập trung buôn bán ở phố chợ, còn có các cửa tiệm người Bắc chuyên kinh doanh ngành nghề như tiệm chụp hình Thiện Ký ở phố bờ sông đường Trưng Trắc, Nam Bình trên đường Đinh Bộ Lĩnh, gần cầu Quay; tiệm may Hải Phòng ở gần nhà thờ chánh tòa, đường Nguyễn Trãi… Không biết có bao nhiêu người, nhưng họ cũng lập hội Tương Tế Bắc Việt và có nghĩa trang riêng ở ngoài ngã ba Trung Lương gần nghĩa trang Triều Châu.
*****
Năm Mậu Thân 1968, chiến cuộc lan tràn tới thành phố và khu chợ Thạnh Trị là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất, nhà cửa chợ búa cháy rụi, người chết rất nhiều, trong đó có gia đình ông Tư Bắc. Vợ ông bị thương nặng và ông mất một đứa con vì đạn lạc. Sau chiến cuộc, lệnh tổng động viên được ban hành. Mấy anh em con nhà ông Tư Bắc lần lượt lên đường nhập ngũ. Hắn vào trường Sĩ quan Thủ Đức, chọn binh chủng Thiết giáp. Ra trường trấn đóng vùng cao nguyên thuộc Thiết đoàn 8 Kỵ binh Biên trấn.
Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, hắn chỉ huy đoàn xe tăng M41 xung phong lướt đạn trọng pháo, lừng lững tấn công vào ổ mai phục của địch trên đèo Chu Pao. Sống chết trong gang tấc, đồng đội bị bắn cháy khốc liệt. Xe tăng của hắn vẫn không hề nao núng khiến địch hoảng sợ và rút lui. Cuối cùng, một tuần lễ sau, đơn vị của hắn rầm rập băng cầu Dak Bla tiến vào thành phố Kontum dưới sự reo hò vang trời của các đơn vị bạn. Hắn được đặc cách thăng cấp tại mặt trận. Phóng viên chiến trường có bài báo tường thuật trận đánh ác liệt trên đèo Chu Pao, trong đó có ghi lại chiến công của hắn.
Từ đó hình ảnh người sĩ quan gan dạ lan rộng về tận miền Cao nguyên. Đi đâu ai cũng biết. Lúc nào hắn cũng đội chiếc mũ bê rê đen có thêu phù hiệu đơn vị sáng chói. Khi thì vắt ở cầu vai, lúc thì cầm tay xếp gọn. Tướng người trắng trẻo, to cao giống Tây lai, ăn mặc tươm tất. Nhìn quân phục biết tư cách. Ra phố ăn uống với bạn bè lính tráng, hắn chỉ uống một chai bia không hơn không kém. Không thuốc lá, cờ bạc. Mấy cô chiêu đãi viên hay chủ tiệm ăn, cà phê mê hắn như điếu đổ, nhưng hắn vẫn cứ phớt lờ như “người cõi trên.”
Đến khi có lệnh ngưng bắn năm 1973, hắn đi phép về Mỹ Tho cưới vợ do gia đình kết nối. Hai gia đình quen biết nhau từ năm 1954 trên đường vào Nam. Vợ hắn bị đẻ rớt trên tàu di cư và mẹ ruột của hắn chính là người đỡ đẻ cho sản phụ. Khi tàu cặp bến Nha Trang, cả gia đình có trẻ sơ sinh xuống tàu tạm cư ở đấy. Sau đó, mẹ hắn vẫn thường hay tìm cách liên lạc với gia đình cháu bé. Có lẽ thương đứa con gái do chính mình đỡ từ thuở nhỏ, nên mẹ hắn đã rủ gia đình ba mẹ cô ấy về Mỹ Tho định cư, mở một tiệm may nổi tiếng ở chợ Vòng Nhỏ sinh sống. Hai đứa trẻ lớn lên trong Nam, nhưng cùng nói tiếng Bắc, giọng chuẩn Hà Nội không lai. Hiền lành, đẹp đẽ thật là xứng đôi.
*****
Tháng Tư 1975, cộng sản chiếm thành phố, khi cờ xanh đỏ chứ chưa phải cờ đỏ sao vàng treo đầy phố, ông Tư Bắc đóng ngay cửa tiệm, bỏ nhà dời cả gia đình về xóm di cư ở tận ngoài ngã ba Long Định, gần cầu Kênh Xáng để làm nông sinh sống cùng với người bà con đã lập nghiệp tại đây từ lúc mới vào Nam. Hai người con lớn của ông kịp thời di tản sang Mỹ trước khi cộng sản chiếm thành phố. Riêng hắn, sau khi đơn vị tan hàng, cũng trở về đây sống với gia đình được chừng hơn tháng. Sau đó ra trình diện đi cải tạo theo diện sĩ quan chế độ cũ.
Cải tạo một năm ở trại Mỹ Phước (Vườn Đào), Tiền Giang; sau đó hắn bị đưa ra Bắc, lên tận miền Thượng du lao động khổ sai trong đội khai thác đá. Bặt tin nhà. Đến khi Trung Quốc phát động chiến tranh tràn qua biên giới, các trại cải tạo di dời về miền xuôi. Hắn theo đội chuyển về trại Nam Hà. Đến lúc nầy tù nhân mới có chế độ thăm nuôi. Hắn viết thư về gia đình xin quà như bao tù nhân khác, nhưng đặc biệt là xin thêm một cái kính đeo mắt màu nhạt không có độ.
Nhớ hôm lần đầu tiên thăm nuôi, khi vừa trông thấy hắn ra tới nơi, vợ hắn xỉu ngay tại chỗ. Người đen đúa ốm trơ xương, quần áo tù lếch thếch, gương mặt hốc hác, choàng qua đầu một sợi dây cao su nhỏ dẹp màu đen che một bên mắt trái bịt kín bằng một miếng vải đen dày xếp nhỏ. Hắn kể lại cách đây mấy năm, lúc mới ra cải tạo ở miền Bắc, hắn được phân công về tổ gài mìn bắn đá của đội. Một hôm tai nạn xảy ra, kíp mìn chưa gài đã phát nổ, hắn bị thương nặng khiêng về trạm xá. May mắn còn sống sót, nhưng đã gởi lại một con mắt văng đâu đó trên đồi đá Hoàng Liên Sơn.
Cải tạo gần tám năm, hắn trở về Long Định, Tiền Giang sống chung với bố mẹ, vợ con. Lúc bấy giờ ông Tư Bắc đã lập một nhà máy xay lúa cỡ nhỏ trong khu người Bắc di cư năm 1954. Cả hai vợ chồng hắn phụ giúp trông coi nhà máy. Được vài năm khi có phong trào Việt kiều gởi quà về cho thân nhân và đồng thời về nước thăm gia đình, vợ chồng hắn mở một sạp bán quần áo cũ gọi là hàng siđa tại chợ Long Định. Lâu dần, sạp của hắn trở thành đại lý đủ các loại hàng hóa nước ngoài, chủ yếu là thuốc tây. Vì có anh chị đang ở Mỹ thường xuyên gởi quà về, nên khách hàng rất tin cậy hàng hóa của hắn là hàng thiệt, kể cả các mặt hàng về lậu từ bên Campuchia.
Để được yên thân mua bán làm ăn, hơn nữa chỉ còn một con mắt nên hắn tình nguyện làm người đưa thư trong khu phố để khỏi phải đi lao động xã hội chủ nghĩa hằng năm. Được chừng vài tháng, chính quyền xã gọi hắn lên điều tra về công tác đưa thơ. Tình thật, nhưng không đúng việc đúng người, hắn bị cho thôi việc sau khi làm tờ trình không có quan hệ với bọn người vượt biên vượt biển. Hắn phải ký giấy cam kết không làm tai mắt, đưa tin cho bọn phản động. Tuy chột mắt nhưng tướng tá tay chân vẫn còn khỏe mạnh nên không được miễn lao động – cán bộ xã nói vậy. Chính quyền “đặc ân” cho phép hắn nếu muốn, được đóng tiền thuê người lao động xã hội chủ nghĩa khỏi phải đi nông trường.
Lúc bấy giờ ngã ba Long Định là điểm tập kết rất thuận tiện cho khách vượt biển đi từ Sài Gòn. Qua khỏi cầu Kênh Xáng xuống dốc là tới khu thị tứ sầm uất nằm ngay ngã ba. Kênh Xáng là con kênh sâu rộng do người Pháp đào để xả phèn từ miệt Đồng Tháp Mười. Khoảng gần cầu Kênh Xáng là chỗ nước sông cái chảy vào tới nơi, do đó mà các ghe chài thường hay ra lấy nước ngọt khi nước lớn, chở về trữ để dùng trong mùa nước hạn, hoặc các nhà máy chở về tận trong các khu kênh ngọn để làm nước đá bán cho dân chúng.
Kênh Xáng rất thích hợp cho ghe lớn neo đậu. Bờ bãi hai bên rậm rạp, xóm chợ di cư nằm dọc theo bờ kênh, ghe xuồng tấp nập nên khách vượt biển rất dễ dàng trà trộn với người địa phương, nhưng thuận lợi nhất là ghe ra vàm sông cái rất gần. Khách đi xe đò xuống khoảng xế trưa, quanh quẩn ở khu chợ chờ chạng vạng tối xuống ghe lớn đậu sát bờ kinh. Đủ người, ghe thẳng đường ra sông cái non một tiếng đồng hồ. Dân di cư ở Long Định vượt biển thành công rất nhiều.
*****
Riêng hắn không có ý định vượt biên vượt biển. Bạn bè người thân rủ đi, hắn luôn từ chối “không muốn đi”, chỉ vậy thôi chứ không nêu lý do hay nói dài dòng. Có một lần anh bạn chuẩn bị vượt biên đến nhà hắn chơi nói đùa rằng:
– Có lẽ hắn chờ “tàu há mồm” đến rước đi như hồi năm 1954 cho an toàn.
Quả thật, hắn đã cùng vợ và hai con lên tàu sớm nhất, không phải “tàu há mồm” mà là tàu bay Boeing đi qua Mỹ định cư theo chương trình HO vào cuối năm 1990. Thời kỳ này, người miền Nam qua Mỹ ào ạt theo đủ thứ diện. Không phải một triệu như trước đây mà có đến gần ba triệu người di cư. Riêng tại thủ phủ Little Saigon và vùng phụ cận, có mấy trăm ngàn người Việt định cư. Gia đình ông Tư Bắc cũng như gần hết xóm di cư ở ngã ba Long Định đều qua Mỹ ở rải rác khắp các tiểu bang.
*****
Kể từ khi về hưu non ở tuổi mới ngoài 60, hắn vẫn thích ra phố hằng ngày. Nay ngồi chỗ này, mai chỗ kia, cũng loanh quanh khu Phước Lộc Thọ. Ông Tư Bắc ngày mới qua Mỹ, tuy ông nghe nói nhiều nhưng vẫn hết sức vui mừng khi được hắn đưa đi trên phố Bolsa thấy toàn người Việt nói tiếng Việt. Có đủ cả các bảng hiệu tiệm ăn mang địa danh ba miền Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Quan hệ giao dịch mua bán ở đây dùng toàn tiếng Việt. Sinh hoạt rất dễ dàng như một thành phố chính hiệu ở Việt Nam. Hàng hóa đầy đủ, không thiếu thứ gì. Lễ hội truyền thống hay Tết do cộng đồng người Việt tổ chức có rất đông người tham dự, có khi lên đến hàng trăm ngàn người.
Hồi mới qua Mỹ, hắn cũng đủ tiêu chuẩn để được hưởng trợ cấp như người bị thương tật hoặc có trẻ em dưới 18 tuổi, nhưng hắn từ chối và xin đi học nghề thành thục, sau đó có công ăn việc làm ổn định. Hầu hết người già hay đau yếu ở Mỹ đều được trợ cấp xã hội đầy đủ, kể cả bảo hiểm sức khỏe. Thập niên 1990, khi chương trình HO được mở ra, có hàng trăm ngàn người qua Mỹ định cư. Đa số đều lớn tuổi hoặc ở thêm một thời gian ngắn là đến tuổi 65 để được hưởng trợ cấp cho đến mãn đời. Có người lãnh tiền liên tục đến gần 20 năm. Hắn thường hay nói đùa, tất cả đều thuộc biên chế Sư đoàn 605 (chỉ mức tiền được lãnh từ những năm 1990 là $605/tháng.) Tiếp sau đó, các chương trình bảo lãnh đoàn tụ, ra đi có trật tự, khiến nhân số người ra đi định cư gia tăng lên gấp đôi, gấp ba so với lúc ban đầu.
Trẻ em dưới 18 tuổi thuộc các gia đình di dân HO cũng như bảo lãnh đều được đi học miễn phí. Khi lên đại học bốn năm còn được lãnh học bổng hàng năm. Tại thủ phủ Little Saigon và các thành phố lân cận người ta có thể thấy toàn bảng hiệu các bác sĩ, nha, dược sĩ đều mang họ Việt. Trong các cơ sở thương mại kỹ nghệ, tỷ lệ kỹ sư người Việt là vượt trội, nhất là kỹ sư nữ. Hắn nói con cái sang đây mà không tốt nghiệp đại học mới là chuyện lạ.
Sự hội nhập của người Việt vươn ra khắp nước Mỹ thật đáng khâm phục. Chỉ sau 30 năm, người Việt đã có mặt trong hầu hết lãnh vực hoạt động xã hội, khoa học, kinh tế, chính trị… Chưa có sắc dân nào trên nước Mỹ chỉ cần 20 năm định cư mà đã có thể biến một nông trại trồng cam hoang vu rộng lớn thành một thành phố sầm uất với dân số trên 200 ngàn người gần như thuần Việt. Hắn rất thích thú về điều này. Ngồi trong quán ở đây mà cứ ngỡ như là đang ngồi ở giữa vườn cam.
Ngoài tình đồng hương gắn bó với lối sống hợp quần, người Việt còn rất nặng tình gia đình, nên hầu như bất kể nghèo giàu, ai cũng có gửi tiền về Việt Nam cho bà con, gia đình. Từ ngày đặt chân qua Mỹ, hắn đều gửi tiền về cho gia đình ở Việt Nam ba tháng một lần, cho đến khi gần như hầu hết gia đình anh chị em được bảo lãnh qua Mỹ định cư mới ngưng không gởi nữa.
Mấy năm trước đây khi còn khỏe mạnh, ông Tư Bắc về Việt Nam mỗi năm một lần, nhằm vào ngày kỵ giỗ để đốt cho bà Tư một nén nhang. Mộ bà nằm ở Long Định, Tiền Giang. Thỉnh thoảng đôi ba năm, vợ hắn cùng với các con cháu trong dịp hè cũng có về Việt Nam thăm viếng họ hàng và du lịch. Riêng hắn chưa bao giờ về Việt Nam. Ai hỏi, hắn chỉ trả lời “không muốn về.” Vậy thôi. Không giải thích lý do hay nói dài dòng. Có người bạn thân bảo rằng
– Có lẽ hắn thuộc phe chống cộng tới chiều.
Nghe được hắn trả lời:
– Bây giờ cả nước chống cộng. Chứ không riêng gì dân di cư.
Hắn tham gia từ xa mọi tổ chức có đăng thư mời trên báo hoặc các đài truyền thanh, truyền hình, có nghĩa là đóng tiền mà không dự. Chỉ duy nhất tổ chức ái hữu binh chủng Thiết giáp và đồng hương thì hắn mới đích thân tham dự. Đặc biệt khi đi, hắn luôn mặc thường phục. Có người bạn muốn hắn mặc quân phục trong các buổi họp mặt đồng đội, vinh danh “người hùng Chu Pao” nhưng hắn im lặng. Hình như ít khi hắn đóng góp cho các quỹ từ thiện dù dưới bất cứ hình thức nào. Hắn chỉ gửi tiền về cho quỹ giúp các tù nhân chính trị. Hắn chăm sóc đưa rước mấy đứa cháu, nên hằng tháng hai đứa con gái lớn đều gởi cho hắn một số tiền. Bao nhiêu không ai biết, hắn đều gởi hết về cho quỹ.
Bàn tính khi ông Tư Bắc tới trăm tuổi già, mấy đứa con của hắn dự định mua một phần đất ở Rose Hills hoặc đưa thi hài về Việt Nam nằm cạnh mộ bà Tư ở Long Định. Hắn bảo rằng ở đâu cũng được. Thậm chí thiêu xong gởi ở chùa một thời gian rồi đem rải tro ra biển cũng tốt. Giữ lòng thành kính và tưởng nhớ vẫn hơn. Hắn nghĩ, mọi sự có thể mất đi hoặc đổi thay, kể cả màu da hay tiếng nói, nhưng bản sắc và cội nguồn của người di dân vẫn tồn tại mãi.
Có hôm trời trở gió, đôi khi bất chợt, những hình ảnh cũ, mờ nhạt về nơi “chôn nhau cắt rốn” của hắn ở một thành phố cảng miền Bắc xa xôi lại hiện về. Hắn luôn dậy sớm, chờ sáng để “đi loanh quanh ra phố Bolsa.” Chỉ vậy thôi.
____________
Muôn nẻo đường đời (những chuyến ra đi và những điều kể lại) – cuộc thi do báo Saigon Nhỏ tổ chức, dành cho mọi người Việt ở mọi nơi trên thế giới, với giải nhất $5,000 trong tổng giải thưởng gần $30,000. Bài vở xin gửi về [email protected]. Vui lòng xem Lời mời cuộc thi để biết thêm chi tiết.