Bài biên khảo của Bác Sĩ William W. Seeley, chuyên khoa Thần Kinh tại Đại Học California, San Francisco (UCSF), và những người cộng sự được bàn tán sôi nổi trong cộng đồng Y học, nhất là trong môi trường khảo cứu về tâm não.
Sáng tạo là một khả năng thiên phú, sự sáng tạo đòi hỏi một trí óc giàu tưởng tượng và sự khéo léo của đôi mắt và đôi tay để dẫn đưa những ý tưởng trừu tượng đến thực hành. Xa hơn nữa, người nghệ sĩ dùng khả năng thiên phú để kết nối những cảm tính, ý tưởng và tâm tình cũng như hình ảnh vào một cách trình bày nào đó như âm nhạc, hội họa, văn chương…
Tuy có thể cảm nhận và rung động với cái đẹp của nghệ thuật, việc tìm hiểu nguồn gốc và cách thức não bộ (của nghệ sĩ) tạo ra những tác phẩm để đời vẫn là một sự bí mật mà khoa học chưa hiểu biết bao nhiêu. Khảo sát não bộ của những nghệ sĩ bị bệnh tật hành hạ giúp các chuyên gia hiểu một vài khái niệm về sự sáng tạo của tâm não. Khi bệnh nhân bị những chứng bệnh ảnh hưởng đến phần sau vỏ não (posterior cortex), người nghệ sĩ không còn “thấy” (nhìn và cảm nhận) được những hình ảnh. Ngược lại, khả năng “thấy” có thể sẽ gia tăng khi một phần não bộ phía trước (anterior cortex) bị bệnh tật.
Theo các chuyên gia, hầu hết những chứng bệnh ảnh hưởng đến não bộ thường gây suy giảm các chức năng, từ các hoạt động của thể xác đến các hoạt động của tâm trí. Nhưng trong bài tường trình kể trên các tác giả đã khám phá một hiện tượng đặc biệt, trái ngược với những điều ta hiểu biết, trường hợp một bệnh nhân phát huy được khả năng sáng tạo trong khi bị bệnh primary progressive aphasia (PPA).
PPA là một chứng bệnh do sự thoái hóa của thần kinh tại não bộ. Người bệnh từ từ mất dần thoạt tiên là khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ, sau đó đến những phần khác của não bộ. Tuy nhiên, từ những năm 90, Bác Sĩ Bruce L. Miller, chuyên gia Thần Kinh tại UCSF, đã khám phá ra rằng một vài bệnh nhân với chứng PPA phát huy được tài năng nghệ thuật của họ sau khi nhuốm bệnh.
Chứng PPA khiến phần vỏ não quanh rãnh Sylvian (perisylvian cortex) bị teo nhỏ lại, bệnh nhân do đó mất dần khả năng sử dụng ngôn ngữ (không thể nói từng câu, câu nói không còn mạch lạc, mất dần cách dùng chữ, khó diễn tả ý muốn). Dần dần não bộ thoái hóa và họ mất trí nhớ cũng như bị bại liệt từng phần trên cơ thể. Tuy nhiên, một vài người trong những bệnh nhân này trở nên “linh động” hơn, mãnh liệt hơn trong việc thu nhận hình ảnh và biến những hình ảnh này thành âm nhạc hay tranh vẽ!
Bệnh nhân là Tiến Sĩ Anne Adams, 67 tuổi, qua đời tháng Mười Hai năm 2007. Bà Adams có thời là giáo sư Sinh Hóa Tế Bào (Cell Biology). Năm 46 tuổi, Tiến Sĩ Adams ngừng công việc dạy học để có thể dành hết thời giờ chăm sóc người con bị tai nạn xe hơi; trong thời gian này bà giải khuây qua hội họa.
Sau vài tháng, như một phép lạ, người con hồi phục hoàn toàn và trở lại đời sống thường nhật, nhưng Tiến Sĩ Adams không trở lại giảng đường và phòng thí nghiệm, bà chọn hướng nghệ thuật và tiếp tục theo đuổi hội họa. Trong thời gian 6 năm, khả năng về hội họa của bà Adams tiếp tục thăng tiến. Ở tuổi 52, những bức tranh của bà Adams trở nên tươi sáng hơn, sống động hơn và dường như sâu sắc hơn. Bà bắt đầu chuyển những âm thanh cảm nhận được từ âm nhạc vào tranh vẽ, Tiến Sĩ Adams “vẽ” những bản nhạc lẫy lừng như Rondo alla Turquoise, Rhapsody in Blues và Bolero.
Năm 58 tuổi, những bức tranh của bà Adams trở nên trừu tượng hơn, những hình thể, con số và đường thẳng trong các màu sắc khác nhau; trong thời gian này, bà Adams chưa có dấu hiệu gì về việc mất khả năng sử dụng ngôn ngữ. Đến tuổi 60, thân nhân bắt đầu nhận ra sự thay đổi khi bà Adams cất tiếng nói, những câu nói không còn mạch lạc, dùng chữ sai, hỏng văn phạm nhưng khả năng thu nhận và hiểu biết điều người khác nói vẫn tương đối bình thường. Trong thời gian này, các bức tranh đã có phần đổi khác, các hình thể trở nên cân đối chính xác khó ngờ, bà Adams bắt đầu vẽ những cảnh vật thiên nhiên và các tòa nhà.
Cách sử dụng ngôn ngữ mỗi ngày một hao hụt, đến năm 64 tuổi thì Tiến Sĩ Adams hầu như không còn nói được nữa, bà chỉ ú ớ trong cổ họng những âm thanh uất ức phẫn nộ. Bà “nói chuyện” với chồng bằng hình vẽ và cử chỉ. Cơ thể mất dần các hoạt động và Tiến Sĩ Adams mất năm 67 tuổi để lại một số tác phẩm về hội họa. Qua những tác phẩm này, các chuyên gia bắt đầu so sánh với những hình ảnh chụp ra từ não bộ của bà, và nhận thấy phần nào việc “chuyển dịch” giữa âm thanh và tranh vẽ qua hình thể và màu sắc.
Việc so sánh kể trên đưa đến một số kết luận về tiến trình của chứng PPA.
Bức tranh Hennings Building (1991) khi bà Adams chưa có dấu hiệu gì về chứng PPA:
Theo thân nhân, bà Adams, không rõ vì lý do nào đó, say mê bản nhạc Bolero do Maurice Ravel sáng tác năm 1928, và đã “chuyển dịch” âm thanh cảm nhận được thành hình ảnh qua tranh vẽ, bức tranh “Unravelling Bolero” (1994), 6 năm trước khi các triệu chứng xuất hiện:
Tiến Sĩ Adams không hề biết rằng chính tác giả, nhà soạn nhạc Revel cũng bị một chứng bệnh với các triệu chứng tương tự như chứng PPA. Khi sáng tác bản nhạc kể trên, ông Ravel cũng trải qua những ngày tháng bị bệnh tật hành hạ, ông nhạc sĩ cũng bị lẫn lộn giữa các nốt nhạc và cung nhạc.
Bài Bolero bao gồm hai giai điệu hòa âm chính, hai giai điệu này được lập đi lập lại tám lần với âm lượng và các loại nhạc khí khác nhau. Nhà soạn nhạc đã sử dụng cùng giai điệu không thay đổi nốt nhạc cho đến nhịp điệu thứ 326! Người thưởng ngoạn diễn dịch rằng bản nhạc là hình ảnh của sự gò ép theo khuôn khổ và nhẫn nại (compulsive and persevere)? Bà Adams dường như bị thu hút bởi sự lập đi lập lại kia, và đã dùng một hình chữ nhật theo hàng dọc cho mỗi nhịp điệu của Bolero. Những hình thể này được xếp đặt theo in như các nhịp điệu của bản hòa tấu. Chiều cao của mỗi hình thể tương xứng với âm lượng, hình dáng tương xứng với mỗi nốt nhạc và màu sắc theo âm thứ!
Hai Bác Sĩ Miller và Steeley cho rằng nhà soạn nhạc Ravel và bà Adams cả hai đều ở trong thời kỳ khởi đầu của chứng “frontotemporal dementia” hay PPA khi họ tạo ra các tác phẩm này. Chứng PPA thay đổi các “mạch” thần kinh, thay đổi các “nối kết” của phần trước và phần sau của não bộ; do đó tạo nên sức sáng tạo ào ạt như nước lũ.
Bác Sĩ Miller nói thêm chứng bệnh PPA thay đổi cách các bộ thần kinh tiếp nối với nhau nên các tín hiệu dẫn truyền bởi các thần kinh này cũng bị rối loạn, giản dị hơn khi “mạch” điện bị rối loạn, dây điện không còn làm việc theo thứ tự trước đó một cách hữu hiệu nữa.
Cả hai chuyên gia về thần kinh đều kết luận, ta cứ tưởng là chứng thoái hóa não bộ ảnh hưởng toàn diện đến não bộ, và cấu trúc nào cũng bị ảnh hưởng như nhau. Thật ra, khi một cấu trúc tại não bộ và hệ thần kinh liên quan đến cấu trúc ấy bị hư hoại, cấu trúc này có thể kích thích hoặc ức chế hoạt động của một hay nhiều cấu trúc khác. Nghĩa là khi một phần của não bộ hư hại, những phần khác có thể thay đổi và các hoạt động trở nên hữu hiệu hơn. Trong trường hợp của bà Adams, phần trước của não bộ bị thoái hóa, phần sau trở nên hữu hiệu hơn để phụ giúp.
Tiến Sĩ Adams, trong 10 năm bệnh tật với sự theo dõi của các bác sĩ chuyên khoa về thần kinh, các hình ảnh từ não bộ được so sánh với các bức tranh do bà sáng tác. Sau đây là một số hình ảnh điển hình:
Năm 1998, hai năm trước khi các triệu chứng của PPA trở nên rõ ràng, bà Adams vẽ bức tranh “Pi”, dùng màu sắc và các dấu chấm để diễn tả sự “không lựa chọn” (randomness) của các con số, một khái niệm trong toán học:
Khi Tiến Sĩ Adams được chẩn bệnh, năm 2000, bà vẽ bức tranh “ABC Book of Invertebrate”, mỗi mẫu tự được đặt cho một sinh vật: E = earthworm, giun đất; O = octopus, bạch tuộc; R = rotifer (dịch nghĩa?); P = peacock worm (dịch nghĩa?). Những bức tranh với các hình thể cân đối và chính xác như thể được đo bằng thước kẻ.
Năm 2004, bà Adams không còn nói được nữa, nhưng bức tranh “Amsterdam” đã cho thấy sự cảm nhận từ việc “nhìn thấy” màu sắc và hình thể đến việc vẽ (cử động của chân tay) lại những hình ảnh kia vẫn còn sắc sảo không ngờ. Nghĩa là một phần của não bộ (posterior cortex) vẫn hoạt động mạnh mẽ với sự chính xác, rõ ràng chi tiết trong khi phần não bộ khác (anterior cortex, phần não bộ liên quan đến ngôn ngữ) hoàn toàn thoái hóa:
Những tranh vẽ được đặt song song với thời điểm của các hình ảnh từ não bộ:
Trở lại với PPA, chứng bệnh đã khiến tài năng hội họa của bà Adams phát triển rực rỡ. PPA là một phân loại của bệnh Arnold Pick còn gọi vắn tắt là Pick’s disease.
Bệnh Pick là một chứng bệnh thoái hóa não bộ hiếm thấy, có những dấu hiệu tương tự như Alzheimer. Tuy nhiên, bệnh Pick ảnh hưởng đến một vài phần đặc biệt của não bộ trong khi Alzheimer có thể ảnh hưởng đến nhiều phần khác nhau của não bộ. Chứng bệnh này có nhiều tên gọi: Primary Progressive Disease (PPA); Semantic dementia; Frontotemporal dementia; hoặc Arnold Pick’s disease.
Trong phần não bộ bị hư hại, ta tìm thấy những chất khác thường, có tên là Pick’s body hay tế bào Pick. Những tế bào này chứa một lượng bất thường protein “tau” hoặc protein tau trở nên bất thường (nghĩa là sự bất thường về “phẩm” hoặc “lượng” của protein tau). Protein tau có mặt trong mọi tế bào thần kinh. Nguyên nhân nào khiến protein tau trở nên bất thường thì khoa học chưa khám phá ra.
Bệnh Pick rất hiếm thấy, phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn là nam phái, có thể xuất hiện trong tuổi 20, nhưng thường thấy trong tuổi 40-60, trung bình là 54 tuổi.
Triệu chứng của bệnh Pick xuất hiện rất chậm, những tế bào não tại thùy thái dương (temporal lobe) và thùy trán (frontal lobe) bị teo nhỏ qua thời gian. Triệu chứng gồm có sự thay đổi về cách hành động và phản ứng, mất dần khả năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng phân tích, thu nhận các dữ kiện trong đời sống hàng ngày.
Sự thay đổi về cách xử sự trong đời sống hàng ngày phân biệt hai chứng bệnh Pick và Alzheimer. Mất trí nhớ là dấu hiệu chính của Alzheimer. Bệnh nhận bị bệnh Pick thay đổi, cách xử sự trở nên lạ lùng, không thích hợp với hoàn cảnh xã hội. Chẳng hạn như việc oà khóc, la lối như một đứa trẻ ba tuổi khi không đòi được món ăn vừa ý. Sự thay đổi này mỗi ngày một tệ hại khiến người bệnh khó tham gia vào đời sống chung quanh. Một số nhỏ bệnh nhân mất khả năng dùng ngôn ngữ như Tiến Sĩ Adams.
Những triệu chứng thường thấy (từ sự quan sát của thân nhân):
a) Cách xử sự: Bệnh nhân không thể duy trì công việc làm, xử sự cấp bách không suy nghĩ (compulsive), không thể giao tiếp với người chung quanh, không thể giữ vệ sinh thân thể (quên tắm rửa, đánh răng, rửa mặt…), cứ lập đi lập lại một cử chỉ hay một câu nói, xa lánh thân nhân bạn bè.
b) Sự thay đổi về cảm tính: Vui buồn bất chợt, không ham thích những sinh hoạt hàng ngày, không nhận ra sự thay đổi của mình, không còn cảm nhận được vui, buồn, đau khổ của người chung quanh, không còn tha thiết đến mọi sự việc trong đời sống.
c) Sự thay đổi trong ngôn ngữ: Không nói được nữa (trở nên câm), không thể viết và đọc nữa, mất dần cách dùng chữ để diễn tả ý muốn, lập đi lập lại những điều người khác nói một cách vô nghĩa, câu nói trở nên vô nghĩa với những âm thanh ú ớ trong cổ họng.
d) Sự thay đổi từ các chức năng của não bộ: Cơ trở nên co cứng (rigid), mất trí nhớ mỗi ngày một trầm trọng, các cử động không còn phối hợp với nhau, cơ mất sức hoạt động. Mất sự kiểm soát của bàng quang và hậu môn.
Khi truy tìm và chẩn bệnh, bác sĩ sẽ cần bệnh sử (do thân nhân quan sát và ghi nhận) chi tiết về sự xuất hiện của các triệu chứng. Ngoài ra bác sĩ sẽ cần một số thử nghiệm như MRI của não bộ, nước não tủy (cerebral spinal fluid, CSF), điện đồ não bộ (electroencephalogram, EEG), CT scan, thử nghiệm tâm lý, khám bệnh toàn khoa và những thử nghiệm về giác quan, khả năng hiểu biết… Trích mô não bộ là cách thử nghiệm chính xác nhất để xác định bệnh Pick.
Sau khi định bệnh, bác sĩ có thể dùng các loại dược phẩm chữa trầm cảm (antidepressant) để bớt các thay đổi cảm tính và duy trì phần nào sinh hoạt hàng ngày. Hiện nay, ta chưa có cách chữa trị chứng bệnh này.
Khi chứng bệnh trở nên trầm trong, bệnh nhân sẽ cần người chăm sóc từ việc thay quần áo, tắm rửa, cho ăn uống… để duy trì sự sống. Thân nhân sẽ cần giúp đỡ người bệnh từ nơi ăn ở đến tài chánh và chung sự.




























