VÀI SINH HOẠT Ở CÔN ĐẢO
NGƯỜI DÂN CÔN ĐẢO DI CHUYỂN RA SAO?
Vào những năm 1971-1972, ngành hàng không dân sự chưa có đường bay ra Côn Đảo. Phi đạo chỉ dài hơn một cây số không thể tiếp nhận nhiều loại máy bay thông thường. Để ra vào đảo bằng đường không, cư dân đảo đi nhờ các chuyến bay quân sự của người Mỹ cần ra đó tiếp tế cho các đơn vị của họ.
Để thỏa mãn nhu cầu của cư dân đảo đồng thời thực hiện một số việc cần như mua sắm vật tư, liên lạc với các đơn vị có quan hệ với chính quyền đảo ở Sài Gòn, Bộ chỉ huy Đặc khu Côn Sơn phối hợp thiết lập và điều hành một “Ban hậu cứ Côn Sơn” đặt tại Nha Cải Huấn, Bộ Nội vụ, dưới sự điều hành của một sĩ quan cấp Trung úy hay Đại úy thuộc Đặc khu Côn Sơn, có sự phối hợp của 1-2 giám thị cải huấn. Cuối năm 1970, người phụ trách Hậu cứ Côn Sơn là Trung úy Phúc, có sự phối hợp của giám thị cải huấn Triệu Văn Đống.
Các cư dân Côn Đảo khi cần trở ra đảo sẽ liên lạc với Ban hậu cứ Côn Sơn, ghi tên và chờ thông báo ngày giờ có mặt tại hậu cứ. Để làm việc này, Hậu cứ Côn Sơn thường xuyên liên lạc với các đơn vị Mỹ thường có chuyến bay ra đảo. Khi biết rõ ngày giờ của một chuyến bay, họ nhanh chóng thông báo cho những người đã ghi tên và khoảng vài tiếng đồng hồ trước chuyến bay, họ chở những người này ra phi trường, đến đúng ngay chỗ đậu của chiếc máy bay sẽ ra Côn Đảo.
Thời đó, loại phương tiện hàng không cho phép người dân Côn Đảo tháp tùng là những chiếc máy bay vận tải quân sự Mỹ C123 và C130. Máy bay có khoang rất rộng để chở được nhiều hàng hóa, vật dụng. Hành khách ngồi trên hai dãy ghế treo bằng vải xếp dọc theo hai bên hông máy bay. Vì là máy bay quân sự, phi công cho máy bay cất cánh hay hạ cánh rất “mạnh bạo”, không lên hay xuống chậm như máy bay hàng không dân sự, còn tiếng động cơ gầm rú nghe đinh tai nhức óc, ngồi gần nhau nói cũng khó nghe.
Ngoài hai loại máy bay quân sự này, thời đó, người Mỹ còn ra đảo bằng máy bay Air Cofat loại C47 nhỏ gọn, thường dùng chuyển thư từ hay hàng hóa, vật dụng loại nhẹ.
Về vận chuyển đường thủy, cư dân Côn Đảo thường ra đảo nhờ vào tàu tuần tra của Hải quân VNCH tại căn cứ Cát Lở (Vũng Tàu). Việc di chuyển này không phù hợp với những người thần kinh yếu, hay say sóng, vì nhiều người kể rằng gặp những lúc biển động, người đi theo tàu chưa quen bị “ói đến mật xanh, mật vàng”.
Được nghe kể lại rằng, mỗi tàu tuần tra của hải quân căn cứ Cát Lở lúc bấy giờ được cấp một lượng dầu đủ để thường xuyên tuần tra vòng quanh đảo, song nhiều khi họ không sử dụng hết lượng dầu được cấp phát, nếu quay về căn cứ với một số lượng dầu dư sẽ gián tiếp tự tố cáo là đã không thực hiện đầy đủ các lượt tuần tra theo qui định. Vì thế, giải pháp tốt nhất họ chọn là xả lượng dầu dư cho các cơ quan làm việc trên đảo. Lọt sàng xuống nia, nhà máy điện Côn Sơn là đơn vị thụ hưởng nhiều nhất những đợt dầu xả này.
CHUYỆN KHÓ TIN Ở ĐÀI LORAN
Vào đầu thập niên 1970, và trước đó, gần phi trường Cỏ Ống ở Côn Đảo có một căn cứ của người Mỹ hoạt động hoàn toàn biệt lập với chính quyền và cơ quan quân sự Việt Nam trên đảo. Cơ sở này có tên là đài Loran, nghe đâu đây là một đài radar hiện đại có nhiệm vụ hướng dẫn máy bay B52 cất cánh từ đảo Guam bay sang miền Nam Việt Nam can thiệp vào các chiến trường.
Nhắc đến đài Loran thời đó, người dân Côn Đảo tuy không rõ họ làm những gì cụ thể, song khó quên lối hành xử đầy tính nhân đạo của những người Mỹ làm việc tại đây. Thời đó, mỗi khi tại Ty Y tế / Bệnh viện Côn Sơn có một ca bệnh nào không thể cứu chữa tại địa phương, phải chuyển gấp về Sài Gòn, họ phối hợp với cơ quan chức năng thông báo cho đài Loran là chỉ vài tiếng đồng hồ sau, một chiếc máy bay trực thăng từ đất liền bay ra đảo để đưa người bệnh về Sài Gòn.
Tất nhiên, trong những chuyến bay như thế, ngoài người bệnh và thân nhân của họ, còn có một vài cư dân Côn Đảo được tháp tùng cho đủ công suất chuyên chở của một chuyến trực thăng. Lâu ngày chầy tháng, thỉnh thoảng có sự lạm dụng của phía Việt Nam, một vài ca bệnh có thể chữa trị tại đảo nhưng vẫn gọi cho đài Loran. Điều này có khi người Mỹ cảm nhận được nên về sau việc gọi xin trực thăng trở nên khó hơn trước.
CHUYỆN MƯU SINH CỦA NGƯỜI TÙ CÔN ĐẢO
Ở Côn Đảo những năm cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, những người tù Côn Đảo không chống đối, nhất là những ai đang sống bên ngoài trại giam như công nhân văn phòng, công nhân tư gia, đều có những cơ hội mưu sinh thêm. Một trong những thành phần tù được sống khá “lãng mạn” là các tù trật tự hoạt động ở các chòi trên nhiều cao điểm vòng quanh đảo.
Tại Côn Đảo có hai mùa gió chính: Một là mùa gió Tây Nam thổi từ tháng 4- 5 đến tháng 11-12; hai là mùa gió chướng, thổi từ tháng 11-12 đến tháng 4-5 năm sau. Gió Tây Nam thổi từ đảo về hướng Philippines nên chính quyền trên đảo ít lo chuyện tù đóng bè vượt ngục. Đặc biệt vào mùa gió chướng, gió thổi mạnh từ đảo vào đất liền nên việc canh phòng tù đóng bè vượt ngục được tăng cường đến mức độ cao nhất.
Đó là lúc các chòi trật tự trên núi hoạt động ráo riết, tù trật tự được tăng cường nhân số. Mùa gió chướng đầu tiên vào đầu năm 1971, tôi chứng kiến một trường hợp tù vượt ngục, lực lượng an ninh trên đảo bủa ra đi tìm, khoảng hơn 10 ngày sau thì bắt lại được. Họ ẩn lánh trong rừng chưa kịp làm gì thì bị bắt.
Cuộc sống của người tù trật tự ở các chòi cao quanh đảo trong mùa gió chướng khá “thi vị”. Mỗi tháng một đôi lần, họ xuống thị xã lãnh gạo và cá, mắm quảy lên núi, dành phần lớn thời gian cho việc mưu sinh thêm. Việc làm phổ biến của họ là trồng rau củ bổ sung cho bữa ăn hàng ngày và nuôi gà. Có những chòi trật tự nuôi nhiều đàn gà, khi gà đủ lớn, họ mang xuống thị xã để bán.
Tù công nhân tư gia cũng sống thoải mái như vậy, nhất là những người ở với các quan chức cao trên đảo. Nhà có những khoảnh sân rộng, họ được phép nuôi gà và thực hành một nghề phổ biến là làm đũa ăn. Đũa làm bằng cây “oăng”, loại gỗ chắc thịt, có sớ khác màu như gỗ cẩm lai. Họ tự chế máy chuốt đũa và đánh bóng đũa bằng cách dùng chai thủy tinh lăn mạnh xuống những bó đũa đã thành hình.
Tuy nhiên, nghề làm đũa của người tù không “sang” bằng nghề làm quân cờ tướng. Nguyên liệu vẫn là loại cây oăng, họ làm thành những quân cờ tròn trịa, đều đặn. Phía trên quân cờ (một mặt hoặc cả hai mặt), họ khoét một rãnh đủ sâu để nhét vào mảnh ốc đụn làm thành tên quân cờ (tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa).
Loài ốc đụn sáng óng ánh như ốc xà cừ, được nhét sao cho mặt quân cờ thật bằng phẳng, vòng ngoài là một hình vành khăn nhỏ, thật đều đặn. Với người tù, không có những phương tiện cơ khí phù hợp mà làm được những quân cờ xinh xắn như vậy đã là một kỳ công. Tinh tế hơn nữa là kỹ thuật khắc chữ lên từng quân cờ, sao cho chữ rõ ràng, sắc nét, điều này nói lên cái tài riêng của mỗi người tù. Thông thường ngoài quân cờ, họ cũng làm luôn một bàn cờ bằng gỗ, khi trải ra có thể xếp quân cờ lên để đánh, khi xếp đôi lại trở thành một hộp đựng quân cờ xinh xắn.
MẤY “ĐẶC SẢN” CỦA VÙNG BIỂN CÔN ĐẢO
Cũng giống như các vùng biển khác ở miền Nam, biển Côn Đảo có nhiều loài cá to như cá mập, cá cày, cá đuối, cá cúi… nhiều con nặng hơn 100 kg. Trong các loài này, cá mập có sức hấp dẫn tột bậc. Vây của chúng (vi cá) được cắt rời khỏi lưng và bụng, phơi khô, là mặt hàng được thị trường ẩm thực Sài Gòn-Chợ Lớn thu hút mạnh mẽ. Khi mua về vi cá đã khô, người ta ngâm trong nước một thời gian khá lâu cho tan dần hết những chất xơ, chất thịt, cho đến khi nào chỉ còn lại những sợi cước trong veo, cứng chắc, có thể dùng chế biến thức ăn cao cấp.
Về rùa biển, có hai loài tiêu biểu là đồi mồi và vích. Đồi mồi được một số cư dân trên đảo nuôi từ việc ấp trứng nở, mai chúng gồm nhiều lớp vảy phủ lên nhau, là nguyên liệu có giá trị cao trong việc chế tác thành đồ mỹ nghệ như lược, trâm cài, hộp đựng nữ trang… Mai của loài vích không có vảy mà chỉ là một mảnh liền lạc có những đường kẻ chia thành từng ô nhỏ, trông xa giống như vảy đồi mồi.
Những năm 1971-1972, tàu chở quân nhân Đại Hàn (Hàn Quốc) về nước thường ghé lại Côn Sơn cho họ mua những con vích to đã moi ruột, dồn rơm, mang về nước làm kỷ niệm. Hỏi sao không mua đồi mồi là sản phẩm mỹ nghệ có giá trị thương phẩm cao, được biết do khí hậu Hàn Quốc rất lạnh, vảy đồi mồi bị bong tróc hết, mai của vích liền lạc nên không bị độ lạnh làm cho hư hại, gìn giữ được lâu dài.
Bù lại thế yếu về cái mai, loài vích cung cấp cho cư dân trên đảo một thứ thịt màu đỏ tươi giống như thịt bò và người dân sử dụng chúng làm món “bò nhúng giấm”, ăn chẳng kém gì thịt bò. Cũng từ ích dụng đó mà người địa phương còn gọi loài vích là “bò biển”.
Cho đến những năm đầu thập niên 1970, Côn Đảo chỉ có đảo chính là có người ở, đến mùa sinh sản, đồi mồi và vích bò lên những hòn đảo vắng người để đẻ trứng xuống những hố cát moi sẵn. Đẻ trứng xong, chúng lấp cát lại rồi bò trở ra biển, bỏ mặc những cái trứng nở ra con và đàn con được sóng biển cuốn ra đại dương, sống đời sống mới.
Vì Côn Đảo là khu vực cấm đánh bắt nên vùng biển quanh các hòn đảo, cá tụ tập rất nhiều, nhất là những loài cá to, lâu lâu mới bị đánh bắt một lần. Người dân Côn Đảo thường dùng xuồng nhỏ đi câu cá gần bờ, chủ yếu là cá thu, thịt ngon và có giá trị thương mại cao. Mồi để câu cá thu là loài cá nục, trông như những con cá thu thu nhỏ; còn mồi để câu cá nục lại là những sợi chỉ kim tuyến óng ánh mắc vào hàng vài chục lưỡi câu gắn trên mỗi dây câu, cá nục trông thấy chỉ kim tuyến tưởng là cái thân loài cá cơm, bập vào và dính lưỡi câu. Chúng đi theo từng đàn, mỗi lần chúng mắc câu, kéo dây lên được vài chục con cá nục như thế.
Riêng món đặc sản cùi ốc (hay cồi ốc) thì có lẽ ngay cả cư dân Côn Đảo cũng không có điều kiện thưởng thức. Nó là lớp sụn mềm hình trụ, đường kính bằng khoảng một đồng tiền, dài 10-15 cm, làm thành cái “bản lề” giúp loài ốc tai tượng khổng lồ có thể khép hay mở hai cái vỏ ốc dài đến hai gang tay, nặng đến 5-6 kg. Món này chỉ dùng để đãi các phái đoàn cao cấp từ trung ương đến, vào hàng Bộ trưởng hay Tướng lãnh.
Để có món cùi ốc, các tù nhân nguyên là người nhái phải lặn xuống những vùng nước sâu, miệng ngậm con dao bén, thấy con ốc tai tượng nào đang há miệng dưới đáy biển là lặn xuống, dùng dao cắt lìa hai cái “bản lề” của vỏ ốc và nhanh chóng trồi lên.
Cùi ốc được luộc chín, thái từng khoanh nhỏ, giòn và ngọt một cách kỳ lạ. Nghe kể rằng thỉnh thoảng có những tù người nhái ham mồi quá, thấy con ốc tai tượng nằm ở độ sâu quá mức chịu đựng của cơ thể, vẫn cố lặn xuống, khi lấy xong cùi ốc, trồi lên đến mặt nước thì máu ở hai hốc mũi trào ra. Thành thử, trong những bữa đại yến như thế, bỏ khoanh cùi ốc vào miệng, ngoài vị ngọt của món ăn ngon, còn nghe như có vị mặn của máu người tù!
Ngoài các loài cá, rùa biển và ốc, vùng biển Côn Đảo có một loại cây đặc biệt gọi là cây dương nước, nghe đâu nếu có chúng bên mình thì sẽ tiêu trừ được nhiều bệnh tật. Cây dương nước mọc dưới biển, thân có nhiều nhánh nhỏ, màu đen tuyền và rất cứng. Trong suốt thời gian ở Côn Đảo, tôi chỉ biết có mỗi trường hợp Trung tá Nguyễn Văn Vệ có một cây “can” (gậy chỉ huy) làm bằng cây dương nước, được chế tác rất đẹp.
Kỳ sau: Chuyện “Chuồng cọp Côn Sơn”
_____________