Theo những nhà khảo cổ thì các giống dân da đỏ ở Bắc Mỹ di cư từ Á Châu sang đây khoảng 10,000 đến 12,000 năm trước. Họ đi bộ qua eo biển Bering lúc đó vẫn còn đóng băng. Người Wampanoag là một sắc tộc nói tiếng Algonquin, định cư tại vùng Đông Bắc, từng có đến 67 bộ lạc với dân số gần 50,000 người. Mỗi bộ lạc có một người tù trưởng đứng đầu; các bộ lạc liên hiệp với nhau thành một cộng đồng lớn. Họ bầu lên một thủ lãnh tối cao gọi là “Sachem”, tiếng Anh dịch là “King”.
Tháng Mười Một 1620, chiếc Mayflower chở thuyền nhân Anh tiến vào vùng vịnh Rhode Islands. Họ đậu ngoài cửa biển gần Provincetown ngày nay, và chờ. Sang Tháng Mười Hai, một nhóm người mang súng đạn lên bờ thám hiểm để tìm chỗ ở. Họ đặt chân lên đất liền tại Plymouth. Nơi đây họ phát hiện những cánh đồng đã được gặt hái, gần đó có suối nước ngọt, nhưng không thấy cư dân nào cả. Thấy có thực phẩm đã được ai chôn sẵn, họ đào lên và mang đi. Họ nào biết đó là thực phẩm của người Wampanoag chôn để dành cho mùa ấm, vì theo thông lệ cứ mùa Đông đến là người Wampanoag rút sâu vào nội địa để tránh lạnh.
Vài ngày sau, chiếc Mayflower thả neo xuống Plymouth; cuộc định cư đầu tiên của người Âu Châu tại Bắc Mỹ chính thức bắt đầu. Sang Tháng Ba 1621, tức hết mùa lạnh, họ mới tiếp xúc với thổ dân. Một trong những người đầu tiên họ gặp là Squanto, thuộc bộ lạc Pawtuxet, biết nói tiếng Anh. Số là năm 1614, Squanto bị nhà thám hiểm John Smith bắt cùng một số thổ dân khác mang về Âu Châu bán làm nô lệ. Không ngờ Squanto được giải cứu bởi một nhà dòng và vài năm sau tìm cách quay về Bắc Mỹ. Nhưng khi anh ta trở lại thì bộ lạc của anh ta đã chết sạch vì một bệnh dịch bí ẩn mà sau này được biết là Yellow Fever do người da trắng mang đến. Đó cũng là lý do cả mấy tháng trời người Wampanoag không muốn tiếp xúc với thuyền nhân trên chiếc Mayflower. Họ sợ bị lây bệnh!
Sau khi biết chắc những người da trắng không mắc bệnh và không có ý định gây hấn, Sachem của Wampanoag là Massasoit đến gặp lãnh đạo người Anh. Hai bên nói chuyện và trao đổi một số vật phẩm tượng trưng, trong đó có thuốc hút và ống điếu của thổ dân. Ngày 1 Tháng Tư 1621, hai bên ký kết một hiệp ước hoà bình mà sử sách gọi là Peace Treaty 1621. Nội dung bản hoà ước này đại ý nói họ sẽ không tấn công nhau, và bên này sẽ giúp bên kia tự vệ nếu bị tấn công bởi một lực lượng thứ ba. Thực tế là lúc đó cả hai đều cần nhau. Người Anh có súng đạn nhưng lạ nước lạ cái. Người Wampanoag thì đang phải đối phó với một bộ lạc thù địch nên cũng muốn có chỗ dựa lưng. Họ đã từng gặp dân Âu Châu trước đó nhiều lần (kể cả người Vikings thuở xa xưa) nên không lạ gì hoả lực của người da trắng. Nói tóm lại, hiệp ước này là một thoả thuận tự vệ cho đôi bên.
Thời gian đầu Squanto dạy cho người Anh cách trồng bắp để có thức ăn và chỉ cho họ nơi nào tốt để săn bắn và câu cá. Sau mùa gặt đầu tiên, dân làng khao một bữa tiệc để tạ ơn Trời Đất. Huyền thoại “Buổi tiệc Thanksgiving Đầu Tiên” của người di dân bắt đầu từ đây. Edward Winslow, một người trong nhóm, viết rằng họ đã mời thổ dân đến cùng ăn một bữa tiệc có thịt nai và chim rừng. Ông ta còn ghi lại tên 52 người Anh có mặt hôm đó — họ là những người sống sót trong số 101 người vượt biển trên chiếc Mayflower. Từ đó về sau, hàng năm người dân Anh ở vùng “New England” thường tổ chức một buổi tiệc tương tự để nhớ ơn tiền nhân. Cần nói thêm là không có nơi nào khác trên xứ Mỹ thuở bấy giờ có tập tục này.
Mãi đến giữa thế kỷ 19, bà Sara Hale, biên tập viên của một tạp chí phụ nữ, tình cờ đọc được bút ký của Winslow và nảy ra sáng kiến giới thiệu tập quán này đến công chúng. Để cho xôm tụ, bà Hale chế ra một số thức ăn hiện đại hơn, trong đó có gà lôi. Đến thời Nội Chiến (1860-1865) Tổng thống Abraham Lincoln ra nghị quyết biến tục lệ này thành một ngày lễ quốc gia, với mục đích xoa dịu lòng dân đang trải qua cơn binh chinh.
Tổng thống Lincoln cũng là người đặt tên cho những người di dân Anh đầu tiên ấy là “Pilgrims” — người đi hành hương. Trên thực tế, nhóm người Anh ấy thuộc một giáo phái cực đoan gọi là Puritan, vì không muốn tuân theo lề luật của nhà nước Anh-Giáo nên họ tìm đường vượt biên. Mới đầu họ sang Hoà Lan tá túc một thời gian. Sau khi gom góp đủ tiền, họ mua tàu Mayflower và tổ chức vượt biển. Dựa theo bản đồ của những nhà thám hiểm đi trước, họ nhắm hướng New York trực chỉ. Nhưng vì bị bão đánh lạc hướng nên tàu của họ đã tấp vô vùng đất của người Wampanoag, địa danh ngày nay mang tên Cape Cod.
Trở lại với bữa tiệc đầu tiên. Theo lời kể của hậu duệ người Wampanoag hiện vẫn đang sống ở Massachusetts, hôm đó người da trắng bắn súng và bắn cà-nông lên trời để ăn mừng. Nghe tiếng súng, một toán 90 chiến binh Wampanoag được phái đến thám thính xem bọn người da trắng đang làm gì và bắn ai, có thổ dân nào bị bắt làm tù binh hay nô lệ hay không. Khi gặp người thông dịch viên và được giải thích rằng đám người kia chỉ đang ăn mừng mùa gặt, toán lính quyết định dựng trại gần đó ít bữa để canh chừng, bởi họ từng có kinh nghiệm không mấy tốt với người da trắng trước kia.
Trong những ngày kế tiếp họ đi săn nai để có thức ăn, vì vậy mới gặp nhóm người Anh đi săn chim rừng, gà rừng mà Winslow ghi trong sổ tay. Người Anh lúc đầu hoàn toàn không có ý định mời người Wampanoag đến để cảm tạ như truyền thuyết. Tuy nhiên, sau khi gặp binh đoàn Wampanoag với những con nai béo tốt, họ đã mời đám thổ dân ở lại để “chung vui”. Do đó ta có thể đoan chắc rằng “Buổi Tiệc Thanksgiving Đầu Tiên” có… thịt nai nướng!
Nhưng cuộc vui nào cũng chóng tàn. Hiệp Ước Hoà Bình (ký ngày April Fools) có hiệu lực được chừng 50 năm thì xảy ra chiến tranh (1675-1678), sử Mỹ gọi là “King Philip’s War” — Philip là Sachem của người Wampanoag, con trai thứ của Massasoit. Vào thời điểm đó, số dân da trắng vùng New England đã lên tới khoảng 80,000 người. Họ không còn thuần tuý là những người Puritan thời Massasoit nữa. Những người da trắng đến sau này bắt đầu lấn chiếm những vùng đất của thổ dân mà Hiệp Ước 1621 đã không tiên liệu để ngăn cấm. Nhiều cuộc xung đột nhỏ đã xảy ra trước đó, nhưng khi chiến sự bùng nổ thì mỗi bên đã phải đem cả chục ngàn quân binh ra trận.
Cuộc chiến khốc liệt dài bốn năm tàn phá vô số làng mạc vùng New England và tiêu diệt gần hết người Wampanoag. Ngày nay, trong 67 bộ lạc thuở ban đầu chỉ còn ba bộ lạc tồn tại: Mashpee, Aquinnah và Mahommet. Họ ở quanh các vùng Martha’s Vineyard, Cape Cod, Rhode Islands hiện nay. Hàng năm đến mùa Thanksgiving, người Wampanoag ở Massachusetts không làm gà lôi ăn mừng giống như người Mỹ. Họ làm lễ nhớ ơn vị vua hùng của họ: Sachem Massasoit.