Nam Phương Hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh năm 1914, tại thị xã Gò Công, Tiền Giang. Có sách ghi rằng, trước khi cưới Vua Bảo Đại, bà đã ba lần là hoa hậu Đông Dương nhưng sau đó, các nhà sử học lại nói rằng vào thời Pháp thuộc chưa từng có những cuộc thi sắc đẹp như vậy. Tất nhiên, nếu không phải là hoa hậu thì bà vẫn có nhan sắc và sự thùy mị khiến vua Bảo Đại phải say mê […]
Trong hồi ký của mình, Vua Bảo Đại kể rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ông và Nam Phương Hoàng hậu diễn ra tại Đà Lạt vào mùa Hè năm 1933, trong bữa tiệc của quan Đốc lý người Pháp. Ông đã viết về cảm xúc của mình khi gặp mặt vợ lần đầu: “Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê.”
Còn cảm nhận của Nam Phương Hoàng hậu lại khác, bà kể rằng:
“Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói:
– Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được.
Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy Vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
– Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse).
Nhờ các nữ tu ở trường Convent des Oiseux khi trước từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc quân vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng đế quỳ gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo cung cách lễ nghi Âu Tây đối với ngài.”
Nhưng để đến được với nhau, Vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu còn phải vượt qua hai khó khăn lớn là tôn giáo và sự ngăn cản của triều đình. Khi Vua Bảo Đại từ Pháp trở về nước chấp chính, có nhiều tin đồn xung quanh bảo chọn một người vợ cho ông.
Thân mẫu của ông vì nghe tin Nam Phương Hoàng hậu theo Công giáo, còn bà chỉ muốn có con dâu theo kiểu truyền thống nên vô cùng phản đối sự việc này. Cùng với đó, không chỉ thân mẫu của ông mà còn có các quan lại trong triều đưa ra nhiều ý kiến phản đối. Trong các đại thần, có cụ Tôn Thất Hân người đứng đầu Viện Cơ mật và Tôn Nhân phủ đã phản đối gay gắt việc Vua Bảo Đại lựa chọn Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ.
Nhưng cuối cùng, Vua Bảo Đại cứng rắn đáp lại triều đình: “Trẫm cưới vợ cho trẫm, chứ có cưới vợ cho cụ Tôn Thất Hân và triều đình đâu!”
Bên cạnh những khó khăn đó, Vua Bảo Đại còn phải đồng ý với điều kiện của gia đình Nam Phương Hoàng hậu:
– Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
– Được giữ nguyên đạo Công giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
– Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
– Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.
Để Vua Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan tiến đến hôn nhân, người Pháp đã xin Tòa Thánh Vatican cho phép ai giữ đạo riêng, thế nhưng đám cưới đang được chuẩn bị thì Tòa Thánh trả lời không đồng ý. Đám cưới vẫn diễn ra, và vì điều này mà Hoàng hậu Nam Phương bị Giáo hoàng rút phép thông công, đến khi Giáo hoàng mới lên kế nhiệm vào năm 1939 mới tha phạt vạ.
Trong hồi ký của mình, Vua Bảo Đại kể rằng sau khi làm đám cưới xong, vua gửi cho Giáo Hoàng Pius 11 một lá thư qua trung gian người Pháp, trong đó bày tỏ quan điểm lập trường cởi mở của mình đối với cuộc hôn nhân, vấn đề dạy dỗ con cái, và sự khác biệt trong văn hóa Đông-Tây.
Đối với Nguyễn Hữu Thị Lan, bà cũng phải đương đầu với một vấn đề khác. Những chỉ dụ cấm đạo và sát đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực, nếu là một người không có sự mạnh mẽ, can đảm, có đức tin, thì liệu có dám dấn thân làm hoàng hậu hay không? Có thể nói rằng bà đã rất dũng cảm khi đi đến quyết định đó. Vượt qua những trở ngại ấy, tận đến khi rước dâu, bên phía nhà trai thậm chí có rất ít người đi, khiến nhà gái phải chờ nhà trai mất một ngày vì sự chậm trễ.
Dù nhà trai bị gượng ép phải đồng ý cuộc hôn nhân này, nhưng đám cưới cuối cùng cũng được hoàn tất. Một đám cưới thu hút rất nhiều sự quan tâm và bình luận lúc bấy giờ bởi vì nó phá bỏ hầu hết các quy định phép tắc trước đó.
Vua Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ “Nam Phương” như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép nàng được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng đế.”
Về đám cưới, Bảo Đại viết trong hồi ký: “Nam Phương mặc chiếc áo rộng thùng thình, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện có đính vàng ngọc châu báu óng ánh. Nàng đi một mình đến giữa tấm thảm, tất cả triều thần cúi chào. Với một vẻ đẹp tuyệt vời nàng đi thẳng vào các phòng lớn, tôi đang ngồi chờ nàng trên một cái ngai thấp ở đó. Nàng đến đứng trước mặt tôi, cúi đầu chào tôi ba lần rồi ngồi ở cái ngai bên phải của tôi. Buổi lễ ngắn ngủi chấm dứt. Hoàng hậu đã ở bên tôi, chúng tôi sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung – nơi ở và làm việc của chúng tôi.
Ông cũng bày tỏ: “Lần đầu tiên trong lịch sử triều Nguyễn có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.” Và đó chính là Nam Phương Hoàng hậu.