Cựu đại úy quân đội Hoa Kỳ George J. Veith vừa cho phát hành quyển sách sử VNCH – Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (nhà xuất bản Encounter Books). George J. Veith (sống tại Delaware) từng viết khá nhiều về chiến tranh Việt Nam (Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975; Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War; và Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War).
Trong Drawn Swords in a Distant Land mới ra mắt ngày 23-3-2021, tác giả điểm lại những sự kiện chính trị chính tại miền Nam Việt Nam trước 1975 và nhắc nhiều đến giai đoạn nắm quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. So với những gì chúng ta từng biết về Tổng thống Thiệu, qua vô số tư liệu, từ Việt Nam máu lửa quê hương tôi của Đỗ Mậu đến Tâm tư Tổng thống Thiệu của Nguyễn Tiến Hưng, chưa kể nhiều quyển sách khác của giới sử học Mỹ chẳng hạn Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975 của Max Hastings mới tung ra cách đây vài năm, hoặc các bộ phim tài liệu trong đó có The Vietnam War của Ken Burns…, Drawn Swords in a Distant Land có mang lại thêm thông tin gì mới? Chúng tôi xin lược thuật một số tư liệu trong quyển sách này…
____________
Kỳ một: Ông Thiệu là người như thế nào?
Về nhân thân Tổng thống Thiệu, tác giả kể:
Vì ông Thiệu là một trong hai nhân vật có ảnh hưởng nhất lịch sử miền Nam Việt Nam – cùng với ông Ngô Đình Diệm – chúng ta hãy xem lại những năm tháng đầu đời của ông. Do thế giới quan thường là kết hợp của văn hóa, cách dạy dỗ, tính cách và kinh nghiệm, nên cần phải xem xét cách thức nuôi dạy và sự nghiệp quân sự ban đầu của ông Thiệu để có thể thấy những điều đó ảnh hưởng đến tính cách và các chính sách trong tương lai của ông như thế nào. Những gì chúng ta biết về những năm tháng định hình con người ông là rất mỏng.
Ngay cả thông tin tiểu sử cơ bản về ông cũng mâu thuẫn. Chẳng hạn, một phóng viên lâu năm ở Việt Nam và người viết cáo phó của ông Thiệu cho New York Times đã lặp lại sự hiểu lầm phổ biến về ngày sinh thực sự của ông. Fox Butterfield viết: “Thiệu sinh vào tháng 11 năm 1924, nhưng theo phong tục Việt Nam, đã lấy một ngày khác làm ngày sinh – ngày 5 tháng 4 năm 1923 – nhằm mang lại may mắn hơn. Ông là con út trong gia đình có năm người con, sinh tại một ngôi làng ven biển miền Trung Việt Nam”. Một số người khác cũng tin rằng ông Thiệu đã thay đổi ngày sinh “theo lời khuyên của một nhà chiêm tinh”.
Dù đúng là người dân ở các làng quê Việt Nam thỉnh thoảng thay đổi ngày sinh vì lý do chiêm tinh, nhưng vợ của ông Thiệu khẳng định ông không làm như vậy. Mặc dù nhiều người tin rằng sinh nhật thật của ông là ngày 12 tháng 11 năm 1924 nhưng chi tiết này xuất phát từ một sai lầm hồi ông còn nhỏ. Theo lời kể của bà Thiệu, khi còn nhỏ, lúc đi thi, cậu học trò Thiệu được thầy hỏi ngày tháng năm sinh. Do không biết chính xác nên cậu chạy vội về nhà hỏi mẹ. Không gặp bà, cậu quay trở lại trường và khai đại rằng ngày sinh của mình là 12 tháng 11 năm 1924.
Dù mẹ của ông Thiệu sau đó sửa lại ngày sinh cho con trai nhưng liệu bà có thay đổi ngày sinh thành điều gì đó có ý nghĩa hơn về mặt chiêm tinh hay không thì vẫn chưa rõ. Ông Thiệu sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923, tại Tri Thủy, một ngôi làng ven biển đẹp như tranh gần thành phố Phan Rang, thủ phủ của Ninh Thuận. Cha mẹ ông không phải là nông dân nghèo sống với ruộng đồng. Họ là gia đình trung lưu tương đối giàu có, có đất có đai và một số cơ sở làm ăn. Họ đã truyền cho ông đức tính lao động cần mẫn và gieo sâu những giá trị văn hóa tiêu biểu Việt Nam để tất cả luôn theo ông khi ông trưởng thành. Cha ông là ông Nguyễn Văn Trung; ông nội và ông cố kiếm sống bằng nghề ngược xuôi bán hàng trên biển.
Sau khi ông Thiệu ra đời, cha ông đã “làm nghề khác. Ông ấy đi Qui Nhơn, mua súc vật, bò… về bán ở Phan Rang, rồi vào Sài Gòn mua bán hàng hóa” (theo Larry Engelmann, “The Man Who Lost Vietnam: Interview with Nguyen Van Thieu,” April 9, 1990 – chú thích của tác giả George J. Veith). Cha của ông Thiệu mồ côi bố từ năm mười tuổi. Ông luôn nhắc nhở con trai (Thiệu) những bài học khó khăn từ cuộc sống vất vả của mình. Ông Thiệu nói với một người phỏng vấn thời hậu chiến rằng, “cha ông ấy luôn dạy ông ấy về sự thận trọng và không bao giờ bất cẩn hay liều lĩnh”, một bài học trở thành đặc điểm tính cách của ông Thiệu.
Ông Thiệu là con út trong gia đình bảy người con. Ông có bốn anh trai và hai chị gái. Trong gia đình, ông được gọi là “cậu Tám”. Không có nhiều thông tin về các chị gái và hai anh trai, nhưng hai người anh lớn, Hiếu và Kiểu, sau này đều trở thành các đại sứ cho Việt Nam Cộng Hòa. Người lớn nhất là ông Hiếu, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1906. Gia đình gửi ông sang Pháp học đại học. Ông Hiếu tốt nghiệp cử nhân luật Đại học Đại học Paris năm 1933.
Ông trở về Việt Nam và làm giám đốc thẩm ở Huế cho đến năm 1939. Khi cha của họ qua đời ngày 12 tháng 1 năm 1969, là con trai cả, ông Hiếu được xem như “quyền huynh thế phụ”. Tuy nhiên ông rời Việt Nam vào năm 1956 vì các nhiệm vụ ngoại giao. Năm 1966, ông trở thành đại sứ Nam Việt Nam tại Ý. Khi người vợ của ông Hiếu qua đời vì ung thư năm 1966, ông Thiệu đã nhận nuôi con gái của ông Hiếu. Đây là một bí mật gia đình rất ít người biết.
Là Phật tử, ông Hiếu là người trầm lặng, không có tham vọng chính trị. Sau khi được bổ nhiệm sang Ý, ông không tham gia chính trường Việt Nam và ở lại Rome cho đến khi Sài Gòn sụp đổ. Trong khi đó, ông Kiểu tham chính mạnh hơn. Ông sinh năm 1916, sau này cải đạo sang Công giáo. Khoảng năm 1940, ông Kiểu trở thành một trong những người sáng lập chi nhánh Nam Việt của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Sau đó ông Kiểu làm đại sứ tại Đài Loan và cũng là sứ giả chính của ông Thiệu với vai trò trung gian trong các cuộc thương thuyết với các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo tại Nam Việt Nam.
Cha mẹ ông Thiệu rất tận tâm trong việc giáo dục con cái, đặc biệt là ông Hiếu và ông Kiểu. Để trang trải cho việc học, cậu bé Thiệu phải phụ giúp mẹ là bà Bùi Thị Hạnh bán hàng ở chợ. Ông kể:
Khi còn đi học, tôi phải giúp các chị bán bánh tráng và khoai lang. Ngoài ra, hàng ngày tôi đi chợ cho mẹ và giúp các chị tôi kiếm tiền để sống. Hai anh trai đi học còn tôi ở nhà phụ các chị dọn hàng ra chợ rồi dọn về. Tôi làm việc rất cực. Mẹ tôi có một cửa hàng tạp hóa nhỏ trong làng. Tôi giúp mẹ ở đó. Lúc đó, ba mẹ tôi phải nuôi hai anh tôi và cho hai anh đi học ở Sài Gòn. Cha tôi luôn cố gắng cho chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn. Ông ấy làm việc rất cực khổ, cũng như mẹ và hai chị gái tôi, để chu cấp tiền cho hai anh tôi đi học tiểu học rồi trung học và sau đó đến lượt tôi (theo Larry Engelmann, “The Man Who Lost Vietnam: Interview with Nguyen Van Thieu,” April 9, 1990 – chú thích của tác giả George J. Veith).
Một người Việt quen biết ông Thiệu trong nhiều năm xác nhận rằng ông Thiệu xuất thân trong một gia đình nền nếp theo đúng kiểu truyền thống Việt Nam. Người này viết: “Hồi đó, tôi đặc biệt kính trọng ông Thiệu vì cha mẹ ông Thiệu là những người lớn tuổi sống tốt, rất có đạo đức, luôn nhắc nhở và dạy dỗ con cái sống tử tế và tuân theo truyền thống Tam giáo” (theo Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Hoàng Linh Đỗ Mậu – chú thích của tác giả George J. Veith).
Sự chấp nhận hiện đại hóa kiểu Mỹ là điểm khác biệt chính giữa ông Thiệu và nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam khác. Những nghi lễ quân đội cũng củng cố niềm tin mãnh liệt của ông vào truyền thống, đặc biệt khi nhìn qua lăng kính thuần phong mỹ tục Việt Nam. Sau này, ông còn áp dụng các nguyên lý Công giáo, dù ông đặt nó giữa nền tảng các giá trị cốt lõi của dân tộc. Vì cha mẹ luôn nhấn mạnh sự học là con đường dẫn đến thành công, ông Thiệu có được một nền giáo dục tốt theo tiêu chuẩn của Việt Nam thuộc địa. Học hành đã rèn giũa trí tuệ mang đặc tính dân tộc cho ông, giúp ông có một lợi thế hiếm có ở thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ.
Ông Thiệu học tiểu học ở quê và sau đó học lên lớp cao hơn ở thành phố Phan Rang. Hai lần một ngày, ông phải đi phà để qua con đầm phá giữa Tri Thủy và Phan Rang. Một trong những người thầy của ông là cha của người em họ, ông Hoàng Đức Nhã. Ông Thiệu học trung học ở Trường Pellerin danh tiếng tại Huế. Pellerin là một trong bốn trường trung học duy nhất do Pháp quản lý dành cho nam sinh ở Việt Nam, nơi chỉ tuyển những người có điểm xuất sắc. Ông Thiệu vào được trường này một phần nhờ sự động viên của anh trai Hiếu. Khi ông Hiếu rời Huế vào năm 1939, ông Thiệu rời Pellerin và chuyển vào Sài Gòn sống với anh trai Kiểu, và học tại trường trung học Lê Bá Cang.
*****
Về ngày sinh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong Tâm tư Tổng thống Thiệu, tác giả Nguyễn Tiến Hưng thuật:
Xuất thân từ một gia đình khiêm nhượng, ông kể lại rằng ngày sinh đích thực của ông là ngày 5 tháng 4, 1923 nhưng vì khi đến trường ghi danh xin học lần đầu, song thân ông đã vắng mặt không có ở nhà để cho ông biết ngày sinh đích xác, nên ông đã chọn đại ngày 24 tháng 12, 1924. Người ta nói là theo thầy tướng số thì nhằm đúng giờ Tý, tháng Tý và năm Tý – là một tuổi có điềm tốt theo tử vi. Là con út trong một gia đình bảy người con, mọi người đều gọi ông là cậu Tám. Cha ông mồ côi từ năm mười một tuổi, đã sống với một người chú ở vùng quê, và phải đi chăn bò để kiếm ăn: “Ông cụ đã thành một thứ cowboy; hồi đó, không có đường xá nhiều, cho nên thường khi cụ dẫn đàn bò từ tỉnh này sang tỉnh khác để bán, dọc đường có khi mất đến một nửa”…
“Mẹ ông đêm đêm nấu bánh tét và từ khi ông lên năm, bà đã giao cho ông bưng thúng bánh ra chợ bán lúc sáng sớm. Ông bán đủ tiền mua vật liệu cho nồi bánh ngày hôm sau, và được lãi chút đỉnh. Ông rất mê đá banh, nên hay dành dụm chút tiền kiếm được để rồi mỗi chiều chủ nhật, ông bỏ chợ đi coi đá banh. Hôm đó, ông lấy bánh ra ăn và còn cho bạn ăn nữa”…
(Tâm tư Tổng thống Thiệu, trang 360, Nguyễn Tiến Hưng)
______________
ĐỌC TIẾP: