Số phận người Công giáo ở lại miền Bắc sau 1954 (kỳ 2)

Kỷ niệm 70 năm (1954 - 2024) hành trình từ Bắc vào Nam đi tìm tự do
Gồng gánh theo Chúa vào Nam – hay nói sát nghĩa, là chạy cộng sản để vào Nam (Hình: DCCT)

Trước những khó khăn của thời cuộc, trong bối cảnh hỗn loạn của biến cố di cư và cả sau này nữa, khi Giáo Hội miền Bắc chỉ còn là “số sót” giữa gọng kìm siết chặt bằng những chính sách triệt tiêu Giáo hội một cách có hệ thống của nhà cầm quyền Hà Nội, hình ảnh những mục tử kiên trung, những tín hữu nhiệt thành sống chết vì đạo đã tô điểm cho Giáo Hội Công Giáo (GHCG) tại Việt Nam những trang sử hào hùng bi tráng.

Một lòng trung kiên với Giáo Hội

Có thể nói, HCG miền Bắc, ngay trong thời điểm khó khăn nhất sau năm 1954, vẫn còn đó những vị mục tử trung kiên, dám đương đầu với những thách đố của thời cuộc. Họ đã chọn ở lại để được đồng hành trong đau khổ với những tín hữu vì hoàn cảnh không thể ra đi. Hình ảnh Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, vì bị chính quyền cản trở, hằng đêm, một mình bước đi trên tầng thượng của tòa giám mục để cầu nguyện, đến nỗi bước chân ngài tạo nên một lối mòn trên nền gạch, đã trở thành một câu chuyện điển hình về một thời gian khó của Giáo Hội miền Bắc.

Trong hồi ký của mình, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng miêu tả vị bề trên khả kính của mình – Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, như một mục tử đầy khôn ngoan, nhưng cũng không kém phần quyết liệt, dứt khoát trong chọn lựa đức tin để bảo vệ Giáo hội.

Trước hết, đối với hàng linh mục, ngài công khai cấm các linh mục không được đi Nam. Những ai rời nhiệm sở phải có phép của ngài và ngài “chỉ cho phép vì một lý do chính đáng nào đó không thể an toàn ở lại miền Bắc. Những ai bỏ đi mà không có phép thì bị treo chén.” Đối với các tín hữu, ngài chăm lo đời sống đức tin của họ. Những lúc có thể, ngài rời tòa giám mục để tới với các con chiên. (x. Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Những Câu chuyện về Một thời, tr. 307).

Đối với nhà cầm quyền Cộng Sản, ngài tỏ rõ thái độ dứt khoát, trước sau như một: “bất hợp tác.” Thái độ “bất hợp tác” này được thể hiện ngay từ trong lá Thư chung ngày 9 Tháng Mười Một năm 1951, ngài ký chung với Đức Khâm sứ Tòa Thánh John Dooley và một số giám mục Việt Nam khác, trong đó có đoạn viết: “Giáo Hội Công Giáo và chủ nghĩa CS là hoàn toàn đối nghịch nhau đến nỗi vị Giáo hoàng – Đức Thánh Cha của chúng ta, đã tuyên bố rằng tuyệt đối không thể cùng một lúc vừa là CS vừa là Công Giáo và tất cả những người công giáo gia nhập đảng CS thì tức khắc (ipso facto) bị tách ly khỏi Giáo Hội. Không những bạn bị cấm gia nhập đảng CS mà bạn còn không thể cộng tác với đảng ấy và làm bất cứ điều gì giúp đưa đảng ấy nắm quyền”. Ngài đã triệt để thực hiện nội dung lá thư chung này.

Theo nhiều nhân chứng kể lại, ngài chấp nhận bị cấm đoán, sách nhiễu chỉ để không phải đi bỏ phiếu bầu cử trong các cuộc bầu cử dân chủ giả hiệu mà chính quyền cộng sản bày ra.

Biểu ngữ kêu gọi vào Nam của chính quyền VNCH

Trong “Những câu chuyện về một thời”, viết về các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội sau năm 1954, Đức Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng còn kể lại nhiều tấm gương đức tin sáng chói, những cách ứng xử khôn khéo của các vị giám mục, linh mục trước những đòi hỏi nhiều khi thật vô lý của chính quyền Hà Nội.

Một trong những trường hợp đặc biệt là linh mục Vũ Ngọc Bích đã vào tới miền Nam, nhưng tình nguyện quay lại Bắc vì lo cho nhà thờ và giáo xứ. Ông ngồi ở hàng đầu, thứ hai, thừ phải qua (Hình: GX Thái Hà)

Tại Giáo Phận Thái Bình, Đức Cha Đaminh Đinh Đức Trụ được kể là một “con người ly kỳ và mọi việc trong thời ngài cũng ly kỳ.” Sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Thái Bình, ngài đã cải trang làm người “lái lợn,” bằng xích lô, bí mật lên Hà Nội để được tấn phong giám mục. Ngài được Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê tấn phong giám mục tại nhà nguyện tòa giám mục ngay bên phòng ngủ của ngài. Sau đó, ngài trở về Tòa Giám Mục Thái Bình, một mình ở trong ngôi nhà ba tầng cũ kỹ, không thư ký văn phòng, không người giúp việc, ăn mặc như một nông dân thực thụ, lãnh đạo giáo phận vượt qua biết bao sóng gió.

Ngày nay, về Thái Bình, đâu đâu người giáo dân cũng nhắc đến ngài với lòng biết ơn chân thành. Người ta kể cho nhau những câu chuyện về cách ứng xử khôn ngoan, nhưng cũng rất hài hước của ngài với các cấp chính quyền. Trên tòa giảng, ngài nói thẳng thắn, không kiêng nể sự gì, kể cả các cấp chính quyền. Ngài phong chức “chui” cho rất nhiều linh mục để họ làm công việc “đóng mở cửa nhà thờ” như ngài đã trả lời các cán bộ khi bị họ thẩm vấn. “Trong những dịp lễ hội của nhà nước, nhà nào, cơ quan nào cũng thế, ít nhất phải treo cờ. Ngài không treo cờ bao giờ.

Nhưng có một lần, ngài cho treo cờ một cách đặc biệt. Ngài dựng một cột cờ rất cao, khoảng 20m, theo kiểu mẫu mà các xứ đạo ở Thái Bình hay Bùi Chu quen dựng vào các ngày lễ lớn. Cột cờ được dựng với hàng chục cây luồng. Trên ngọn, ngài cho cắm một lá cờ bằng hai bàn tay. Ngửa mặt lên phải nhìn kỹ mới thấy. Cán bộ nói: “Thật là quá bôi bác!” (x. Đức cha Phaolo Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời”, tr. 311-317).

Tại hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm, những giáo phận chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến cố di cư và bị chính quyền cộng sản “ưu ái cách đặc biệt,” nhưng cả hai Đức Giám Mục Giuse Phạm Năng Tĩnh và Phaolo Bùi Chu Tạo luôn chứng tỏ các ngài là những mục tử hết lòng hy sinh vì đoàn chiên và là chỗ dựa vững chắc cho các tín hữu bền chí trung kiên trong việc đạo.

Giáo Hội miền Bắc thật sự may mắn khi có những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như vậy. Bên cạnh các ngài, còn có rất nhiều các linh mục, tu sĩ đã chọn lựa lập trường “cứng rắn với chế độ” mà các đấng chủ chiên đã làm gương đi bước trước. Đó là các linh mục như cố Chính Vinh, cha Thông, cha Oánh, Đức cố Hồng y Trịnh Văn Căn, Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, cha Nhân Giáo phận Hà Nội, cha Hân Giáo phận Bùi Chu, cha Hy Giáo phận Thái Bình, cha Giuse Vũ Ngọc Bích, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số họ đã chấp nhận tù đày và nhiều người đã phải chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc.

Bên cạnh những vị mục tử can trường vì sự đạo này, sẽ thật thiếu sót nếu không kể đến hàng trăm, hàng ngàn các ông trùm, ông câu, ông biện, các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo hội. Họ là người tù không án, tự nhận mình là “thanh ngang của cây thập giá Chúa” mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr. 175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là “các anh hùng tử đạo” khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ. Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả “đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù” (x. Bùi Ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000, tr.60).

Ngày nay, thật khó có thể hình dung được tại sao trong cảnh tù tội, những tín hữu Công giáo vẫn có thể kiên trung giữ đức tin, gây được nhiều thiện cảm với những anh chị em không Công giáo. Trong đức tin, họ là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại một mùa gặt bội thu những gánh lúa vàng.

Có thể nói, GHCG miền Bắc không bị “cộng sản hóa,” không trở thành “giáo hội của nhà nước” như dự định ban đầu của nhà cầm quyền cộng sản muốn biến Giáo hội thành công cụ phục vụ cho chế độ, phần lớn là do, vào những thời điểm gian khó nhất, Giáo hội Miền Bắc đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin.

Chính sự kiên trung của họ đã bảo vệ Giáo Hội, đã tạo một nền móng kiên cố mà không thế lực nào có thể phá đổ được. Chính họ chứ không ai khác, qua cuộc sống và những kinh nghiệm khổ đau của mình, đã tiếp thêm sức mạnh, giúp các giáo hữu Miền Bắc tìm ra cách chung sống với những người cộng sản, ít bị vẩn đục, tàn phai.

Những người Bắc di cư vào Nam, sau một năm ổn định làm ăn sinh sống, chụp ảnh và gửi về quê cho bà con (Tư liệu Phạm Công Luận)

Vậy là bảy mươi năm đã qua đi. Bảy mươi năm, một chặng đường đầy gian khổ của Giáo Hội miền Bắc. Đó là những năm tháng của những ân huệ, những trăn trở, những hy vọng và cả những thất vọng. Đó là một chặng đường của một Giáo Hội đi trong đau khổ, giữa những bách hại, những thử thách, nhưng vẫn trung kiên trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.

Đức Thánh Cha Bênêđíchtô 16, trong Tự sắc Porta Fidei, nhân dịp Năm Đức Tin (2012-2013) đã viết: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử Đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người” (số 13).

Lịch sử bảy mươi năm đã qua của Giáo Hội miền Bắc là một lịch sử như vậy. Đó là lịch sử của sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự hiệp nhất và phân rẽ, giữa sự phản bội và trung tín… Dù lịch sử ấy thế nào, thì nó vẫn có một giá trị tất yếu giúp Giáo Hội bước vào tương lai.

Điều quan trọng là nhận ra những bóng tối, những phân hóa, “cùng nhau thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót” và sự trung thành của Chúa với những người Chúa đã chọn cho một giai đoạn của lịch sử của dân tộc.

Giáo hội Công giáo Việt Nam sẽ tiếp tục bước thế nào trong những ngày tháng sắp tới để ‘Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc?”  Đó sẽ là câu hỏi mà GHCG Việt Nam phải trả lời để Giáo Hội thực sự trở thành Giáo Hội Chúa Kitô, của người nghèo và cho người nghèo.

Số phận người Công giáo ở lại miền Bắc sau 1954 (kỳ 1)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: