Nhân tình và tình nhân là hai từ Việt gốc Hán có hai nghĩa khác nhau. Nhân tình人情 = tình người; tình cảm giữa người với người; tình hình dân chúng; còn tình nhân 情人 = người tình; người yêu. Tuy nhiên, thực tế sử dụng hai từ này trong tiếng Việt lại khá rắc rối. Nhiều người dùng đúng, nhưng cũng không ít người nhầm lẫn, đánh đồng, hoặc không phân biệt rõ ràng giữa hai từ “nhân tình” và “tình nhân”.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) ghi nhận cách dùng trong thực tế như sau:
– tình nhân = “người yêu. “Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ, mấy phân chung tình!” (Truyện Kiều)”.
– nhân tình = “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy. Có nhân tình ~ bỏ nhà theo nhân tình”.
– “tình nhân như nhân tình. “… Vợ ông phán mọc sừng đang bù khú với tình nhân ở phòng bên cạnh…” (Vũ Trọng Phụng).
Cách dùng tùy tiện hai từ nhân tình và tình nhân không chỉ tồn tại trong đời sống ngôn ngữ đại chúng mà còn in dấu ấn vào chữ nghĩa của cả những người cầm bút.
Mở đầu bài thơ Ghen, Nguyễn Bính viết:
“Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười,
Những lúc có tôi, và mắt chỉ,
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi…”
Nếu hiểu nhân tình = “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy”, như Hoàng Phê giảng, thì “Cô nhân tình bé của tôi ơi”, trong thơ Nguyễn Bính hẳn là một phụ nữ ngoại tình, một kẻ đáng chê. Trong khi xét vào nội dung bài thơ thì “cô nhân tình” này là một cô người yêu có vẻ đẹp và tất cả sự trong trắng, khiến nhà thơ phải “ghen” đến mức:
“… Tôi muốn những đêm đông giá lạnh,
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô,
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp,
Một trẻ trai nào trong giấc mơ…”
Như vậy, nếu đây là văn bản đáng tin cậy và rằng đây thật sự là một thi phẩm của Nguyễn Bính thì nhà thơ của chúng ta đã dùng từ nhân tình với nghĩa không chuẩn xác.
Với Vũ Trọng Phụng thì khi viết “… vợ ông phán mọc sừng đang bù khú với tình nhân ở phòng bên cạnh…”, ông đã dùng đúng hai chữ tình nhân (người tình) theo nghĩa và cú pháp của một từ Việt gốc Hán. Trong khi nhân tình mà từ điển của Hoàng Phê đã giảng “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy”, thực chất là cách diễn dịch hai chữ nhân tình theo cú pháp tiếng Việt thành người tình.
Vậy nhân tình và tình nhân có những nghĩa nào?
Xin liệt kê một số nghĩa chính sau đây:
1-NHÂN TÌNH:
–Tình người: Thành ngữ Hán Việt có câu Nhân tình thế thái (hoặc Thế thái nhân tình) có nghĩa là tình người, thói đời. Cụ Tú Xương khi nói về tình người bạc bẽo cũng đã viết: “Đ.mẹ nhân tình đã biết rồi, Lạt như nước ốc bạc như vôi”. Hay “Trước đèn xem truyện Tây minh, Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le” (Lục Vân Tiên). Ở đây, từ nhân tình đã được dùng chính xác với nghĩa là tình người, lòng người.
-Dân tình: Tình hình dân chúng (nghĩa cổ). Ví dụ “Chuyến đi sang Pháp này, Trương Vĩnh Ký cũng thu thập, học hỏi được nhiều điều: “Vĩnh Ký trong 9 tháng giúp theo Sứ sự, đều đặng hoàn toàn; nhơn đó mà lại được quan sát nhơn tình, phong tục, châu lưu thành quách sơn xuyên…” (Trương Vĩnh Ký hành trạng – Đặng Thúc Liêng).
–Người tình: Người có quan hệ bất chính, khi cả hai (hoặc một trong hai) đang có vợ, có chồng. Ví dụ “Ông ấy bắt nhân tình với một cô đang còn trẻ lắm”, hoặc “Ông ấy có nhân tình nhân ngãi với…”.
Lưu ý, nhân tình với nghĩa người tình, người yêu trong quan hệ luyến ái, yêu đương chân chính (như cách dùng của Nguyễn Bính trong bài thơ Ghen) hầu như không được dùng trong đời sống.
2-TÌNH NHÂN:
–Người tình: Người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy.
–Người yêu: Người có quan hệ tình cảm thắm thiết, có ý muốn chung sống và gắn bó cuộc đời với một người nào đó (thường chỉ trai chưa vợ, gái chưa chồng). Ví dụ, chúng ta nói Ngày lễ tình nhân chứ không nói Ngày lễ nhân tình!