Các đại diện của Ukraine và Mỹ đã gặp nhau tại Jeddah, Saudi Arabia, hôm Thứ Ba, 11 Tháng Ba, để tìm con đường chấm dứt chiến tranh xâm lược của Nga, hiện đã bước sang năm thứ tư với hàng triệu thương vong của cả hai bên và nhiều thành phố làng mạc của Ukraine đã biến thành đống đổ nát.
Đại diện chính phủ Mỹ (trái) và đại diện chính phủ Ukraine (phải) tham dự cuộc họp giữa Mỹ và Ukraine do Saudi Arabia tổ chức vào ngày 11 Tháng Ba tại Jeddah, Saudi Arabia, để tìm con đường chấm dứt chiến tranh xâm lược của Nga. (Hình: Salah Malkawi/Getty Images)
Tuy nhiên, đến lúc này, lập trường của các bên vẫn rất xa nhau cho nên hòa bình vẫn là một giấc mơ xa, tốt nhất là các bên đạt được một thỏa thuận ngừng bắn.
Hội đàm Mỹ-Ukraine
Đại diện chính phủ Mỹ có ông Marco Rubio – bộ trưởng Ngoại Giao, ông Mike Waltz – cố vấn An ninh quốc gia, còn đại diện Ukraine có ông Andriy Yermak – chánh văn phòng tổng thống Ukraine, ông Andrii Sybiha – bộ trưởng Ngoại Giao, và ông Rustem Umerov – bộ trưởng Quốc Phòng.
Nga không có đại diện tham gia thảo luận nhưng từ sau khi ông Donald Trump, tổng thống Mỹ, điện đàm với ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, hôm 12 Tháng Hai, quan điểm của Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine đã “xoay trục” 180 độ, Washington trở thành người ủng hộ và phát ngôn cho lập trường của Nga.
Vì vậy, theo nhiều nhà quan sát, giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh tàn phá nhất Âu Châu sau thời Đệ Nhị Thế chiến sẽ được tìm thấy trong cuộc đàm phán giữa Ukraine và Mỹ chứ không phải giữa kẻ bị xâm lược với kẻ xâm lược.
Ông Volodymyr Zelensky, tổng thống Ukraine, có mặt ở Saudi Arabia trong thời gian này nhưng không tham dự hòa đàm, diễn ra ở khách sạn Ritz-Carlton ở thành phố biển Jeddah trên bờ Hồng Hải. Tuy vậy, ngay trước khi hòa đàm bắt đầu, ông Zelensky đã tỏ vẻ lạc quan.
“Chúng tôi hy vọng những kết quả thực tế. Lập trường của Ukraine trong những cuộc thảo luận này hoàn toàn có tính xây dựng,” ông Zelensky nói với báo chí và ông cũng hy vọng các cuộc thảo luận Mỹ-Ukraine sẽ làm sống lại mối quan hệ “thực dụng” với Mỹ sau cuộc hội kiến thảm họa giữa ông với ông Trump tại Tòa Bạch Ốc mười ngày trước đây, hãng tin Reuters tường thuật.
Trưởng đoàn Ukraine, ông Yermak cũng cho biết: “Chúng tôi muốn có một cuộc đối thoại xây dựng, sâu sắc, thân thiện.”
Về phía Mỹ, Ngoại Trưởng Marco Rubio dường như muốn làm một bước thăm dò và tìm hiểu lập trường của các bên để từ đó có cách dàn xếp phù hợp. Trên đường tới Jeddah, ông Rubio nói với báo chí rằng các cuộc thảo luận với Kyiv cũng là thước đo liệu Ukraine sẽ nhượng bộ tới đâu để có được hòa bình; ông cần biết lập trường của Ukraine, lập trường của Nga, “bởi vì bạn không thể có ngừng bắn và chấm dứt cuộc chiến này trừ khi hai bên đều phải nhượng bộ,” ông Rubio nói.
Trước khi hai bên ngồi vào bàn đàm phán, ông Rubio nhắc lại: “Điều quan trọng nhất mà chúng tôi phải đạt được ở đây là một ý thức mạnh mẽ rằng Ukraine phải sẵn sàng làm những việc khó khăn, cũng như Nga phải làm những việc khó khăn để kết thúc cuộc xung đột hoặc ít ra cũng tạm ngừng nó theo một cách nào đó,” ông Rubio nói với báo chí hôm Thứ Hai, 10 Tháng Ba.
Lập trường của các bên vẫn xa nhau
Phía Ukraine mang tới Jeddah một đề nghị ngừng bắn ngay lập tức ở trên không và trên biển nếu Nga cũng đồng ý làm như vậy, coi đây là bước đầu tiên xây dựng lòng tin. Nhưng Kyiv cũng yêu cầu có biện pháp bảo đảm an ninh cho Ukraine trước khi họ chấm dứt những cuộc tấn công và phản công trên bộ. Ông Yermak nhiều lần nhấn mạnh rằng, điều quan trọng nhất là “làm sao đạt được một nền hòa bình công bằng và bền vững ở Ukraine,” trong đó các bảo đảm an ninh là hết sức cần thiết để ngăn chặn hành động xâm lược của Nga trong tương lai.
Trước đây, Ukraine đòi hỏi hòa bình chỉ có khi Nga rút quân khỏi những vùng đất chiếm đóng, phục hồi đường biên giới Ukraine được quốc tế công nhận năm 1992, Ukraine gia nhập Liên Minh Phòng Thủ NATO và Nga phải bồi thường những tổn thất mà cuộc xâm lược gây ra ở Ukraine.
Tuy nhiên, theo tình hình, yêu sách của Ukraine đã dần dần giảm xuống: Kyiv không còn đòi chiếm lại các vùng đất đã mất bằng giải pháp quân sự, thay vì vậy, họ cần bảo đảm an ninh cho vùng đất nước còn lại để không bị Nga tiếp tục xâm lấn.
Ukraine muốn sự bảo đảm an ninh quốc gia của họ không phải thể hiện bằng những cam kết trên giấy (như đã từng xảy ra với Giác Thư Budapest 1994 Nga, Anh và Mỹ cam kết bảo đảm an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ cho Ukraine để rồi sau đó Nga bội ước, hai lần tấn công xâm lược Ukraine vào năm 2014 và 2022) mà bằng thực lực quân sự, hoặc Ukraine trở thành thành viên NATO hoặc quốc tế cử lực lượng gìn giữ hòa bình đến giúp ngăn chặn tham vọng bành trướng lãnh thổ của Nga.
Tổng Thống Zelensky nhiều lần nói rằng, ông không thể hy sinh nhiều thế hệ thanh niên Ukraine để giành lại bán đảo Crimea bị Nga sáp nhập năm 2014, nhưng Ukraine sẽ thu hồi Crimea trong tương lai qua con đường ngoại giao hòa bình.
Nguyện vọng gia nhập NATO đã bị chính quyền Trump thẳng thừng bác bỏ. Tại Jeddah, ngoại trưởng Mỹ nói Ukraine phải nhân nhượng phần lãnh thổ bị Nga chiếm từ năm 2014 là “con đường duy nhất” để chấm dứt cuộc chiến. Chính quyền Trump yêu cầu Ukraine ký thỏa thuận nhượng cho Mỹ quyền khai thác khoáng sản và đất hiếm, coi đó như một biện pháp bảo đảm an ninh cho Ukraine trong tương lai nhưng Kyiv không an tâm, trong thực tế sự hiện diện các lợi ích kinh tế của Mỹ tại nước này đã không ngăn cản được cuộc chiến tranh xâm lược của Nga. Vấn đề bảo đảm an ninh cho Ukraine từ đó biến thành điểm nóng tranh cãi giữa hai nước.
Mỹ cũng không tỏ ra mặn mà với đề nghị ngừng bắn một phần mà Ukraine mang tới hội đàm Jeddah; chính quyền Trump vẫn gây áp lực buộc cả hai bên tham chiến phải ngừng bắn hoàn toàn và ngay lập tức, những bước tiếp theo để tiến tới hòa bình sẽ được đàm phán chi tiết sau. Trong một cuộc họp tại Phòng Bầu Dục, ông Trump nói rằng một lệnh ngừng bắn có thể được đồng thuận nhanh hơn một hiệp định hòa bình và ông tin tổng thống Nga sẽ giữ lời.
Về phía Nga, ông Putin vẫn kiên trì đòi thực hiện nhiều điều kiện trước khi đồng ý và thi hành một lệnh ngừng bắn, nhắm tới những nhượng bộ mà Ukraine và Tây phương phải chấp nhận. Không chỉ đòi hỏi được giữ lại những vùng đất tạm chiếm và chiếm thêm nhiều vùng khác, ông Putin còn đòi những cam kết bảo đảm Ukraine sẽ không bao giờ gia nhập NATO, NATO phải rút lực lượng quân sự khỏi các nước Đông và Trung Âu và giới hạn quân số lẫn hỏa lực của quân đội Ukraine.
Liệu Mỹ có thể gây áp lực để buộc Moscow chấp nhận kế hoạch hòa bình không hoàn hảo của Ukraine hay giảm bớt các yêu sách quá đáng của mình hay không là chuyện chưa biết trước được.
Âu Châu chuẩn bị cho cuộc đình chiến
Do Mỹ đã “xoay trục” sang Nga, gánh nặng hỗ trợ Ukraine được đặt lên vai các quốc gia Âu Châu nên Liên Âu đã theo dõi sát cuộc hội đàm Mỹ-Ukraine ở Jeddah. Báo The New York Times còn cho biết, trước khi đến Jeddah hội họp, phái đoàn Ukraine còn được giới ngoại giao EU “huấn luyện” về cách thức đàm phán với người Mỹ để tránh những vụ va chạm như cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc hôm 28 Tháng Hai.
Nhưng đáng chú ý là cùng ngày diễn ra hội đàm Mỹ-Ukraine ở Saudi Arabia, tại thủ đô Paris của Pháp, tư lệnh quân đội của 32 quốc gia, bao gồm khối NATO, trừ Mỹ, cộng với các nước Nhật, Nam Hàn, Úc và New Zealand… đã tổ chức một hội nghị đặc biệt về gìn giữ hòa bình ở Ukraine sau khi một thỏa thuận ngừng bắn được thực thi, giải tỏa nỗi lo lắng thường trực và sâu thẳm của Ukraine.
Hội nghị bàn việc xây dựng một lực lượng quốc tế – một phần kế hoạch của Anh và Pháp – nhằm ngăn chặn một cuộc xâm lược của Nga trong tương lai, từ quy mô của đội quân gìn giữ hòa bình, vị trí bố phòng, cách ứng phó khi lệnh ngừng bắn bị vi phạm.
Một giới chức quân đội Pháp nói với hãng tin AP rằng, lực lượng quốc tế sẽ được trang bị vũ khí hạng nặng và kho vũ khí có thể điều động trong vài giờ hoặc vài ngày để giúp bảo vệ Ukraine trong trường hợp Nga tấn công, chà đạp thỏa thuận ngừng bắn.
Điểm nổi bật là Mỹ, nước đầu đàn của NATO và cường quốc quân sự hàng đầu thế giới đã “bị tẩy chay,” không được mời dự. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Mỹ không được mời tham dự một cuộc họp an ninh cấp cao ở Âu Châu.
Tổng thống Nga liên tục phản đối sự hiện diện của quân đội nước ngoài ở Ukraine, kể cả lực lượng gìn giữ hòa bình trong tương lai. Nhưng nếu một hiệp định đình chiến Nga-Ukraine được ký kết và Ukraine mời một lực lượng quốc tế tham gia giám sát việc thực thi hiệp định thì Moscow không thể ngăn cản được.
Bài học Triều Tiên
Ở đây, trường hợp Nam-Bắc Triều Tiên có thể là một bài học đáng tham khảo. Sau ba năm chiến tranh (1950-1953) làm thương vong một triệu binh sĩ và 2-3 triệu thường dân, hai miền Triều Tiên đã ký kết một thỏa thuận ngừng bắn, lập một khu phi quân sự (demilitarized zone – DMZ) trên vĩ tuyến 38 làm ranh giới giữa hai miền. Nên để ý đây là thỏa thuận đình chiến, không phải là hiệp định hòa bình cho nên về kỹ thuật, hai miền Nam Hàn và Bắc Hàn tới nay vẫn đang trong tình trạng chiến tranh.
Quân đội Mỹ – nòng cốt của đội quân quốc tế 21 nước chiến đấu dưới lá cờ Liên Hiệp Quốc ngăn chặn cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Hàn – đã được khai triển tại Nam Hàn để giám sát cuộc đình chiến và đến nay vẫn còn hơn 28,000 binh lính Mỹ đồn trú tại đó.
Sự hiện diện của quân đội Mỹ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quân đội Nam Hàn đã làm nguội lạnh tham vọng gây chiến và bành trướng của Cộng Sản Bắc Hàn cho dù Bình Nhưỡng đã kiên trì nỗ lực phát triển vũ khí nguyên tử. Bảy mươi năm sau ngày đình chiến, Bắc Hàn vẫn vật lộn trong nghèo đói và lạc hậu trong khi phần phía Nam của bán đảo đã vươn lên thành một quốc gia dân chủ tự do vững mạnh, có nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới, cuộc sống người dân ấm no thịnh vượng.
Nếu hòa bình được vãn hồi ở Ukraine, nếu một lực lượng quốc tế được khai triển ở đó để ngăn chặn tham vọng bành trướng của Nga như kế hoạch của Âu Châu thì biết đâu Ukraine sẽ là một Nam Hàn trong tương lai gần. Đôi khi một nền hòa bình không hoàn hảo vẫn tốt hơn là một chiến thắng phải trả giá máu xương quá đắt.