Vấn nạn người di cư chạy trốn khỏi mực nước biển dâng cao và thời tiết khắc nghiệt, nghèo đói trầm trọng và chế độ độc đoán ngày càng tăng là một “hiện tượng” trên toàn thế giới và là cuộc khủng hoảng chưa từng suy giảm ở Hoa Kỳ.
Tình trạng di cư ngày càng được đáp ứng bằng cách đổ lỗi cho những người cố gắng tìm kiếm sự an toàn và sinh tồn trong bối cảnh các phong trào dân túy và chủ nghĩa bản địa đang gia tăng ở các quốc gia trên khắp châu Âu và phần lớn phương Tây. Biên giới đang được thắt chặt, làm trầm trọng thêm các khía cạnh chính trị và nhân đạo của cuộc khủng hoảng vốn dĩ rất tàn khốc.
Để hiểu tại sao lại có một cuộc khủng hoảng di cư và những gì có thể và nên làm để giải quyết vấn đề này, Tổ chức Dịch Vụ Truyền Thông Thiểu Số (EMS) mời được một số chuyên gia đến tham dự hội thảo qua Zoom hôm 19 Tháng Năm, để đưa ra hiểu biết và kiến thức chuyên môn về một trong những vấn đề trọng tâm của thời đại.
Diễn ra Susan Fratzke, nhà phân tích chính sách cao cấp với Chương trình quốc tế của Viện chính sách di cư (Migration Policy Institute’s International Program), cho biết: “Mọi người đang tìm nơi ẩn náu, người ta lưu ý rằng dòng người di cư trong thập kỷ qua không chỉ tăng lên mà còn mở rộng quy mô toàn cầu. Họ không chỉ chuyển đến một quốc gia ngay bên sát biên giới hay không quá xa nơi quê hương mình, mà họ đang cố tìm kiếm nơi ẩn náu, ở bất cứ nơi nào trên khắp thế giới này.”
Chỉ riêng năm ngoái, Âu châu đã nhận gần 1 triệu đơn xin tị nạn – từ các quốc gia như Syria và Afghanistan đến Colombia và Venezuela, trên 4 triệu người Ukraine phải bỏ xứ chạy loạn trong cuộc xâm lược của Nga, một năm trước đây. Thổ Nhĩ Kỳ là nơi sinh sống của khoảng 4 đến 6 triệu người di cư và tị nạn, ngoài ra còn là hành lang trung chuyển chính cho những người tìm đường đến châu Âu, trong khi trên khắp châu Mỹ Latinh, khoảng 7 triệu người Venezuela sinh sống khắp lục địa, nhiều người trong số họ định cư ở Colombia và Peru .
Cũng theo bà Fratzke, do các chính sách nhập cư và tị nạn nghiêm ngặt và lỗi thời, hàng triệu người buộc phải di chuyển qua những tuyến đường nguy hiểm, đến các quốc gia một cách bất hợp pháp, để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn.
Fratzke cũng lưu ý hầu hết các quốc gia phát triển đều áp đặt các hạn chế về công việc và gia đình đối với người di cư, ưu tiên những người lao động có tay nghề cao, gây tổn thương cho nhiều người mang ước vọng đổi đời. Thậm chí, vào thời điểm này mà còn có người vượt biển bị bỏ rơi, không được cứu vớt – hành động vi phạm luật nhân quyền quốc tế.
Biến đổi khí hậu thúc đẩy khủng hoảng di cư. Tất cả những điều này xảy ra khi Tổ chức Khí tượng Thế giới cho biết rằng trong vòng 5 năm tới có thể sẽ là thời điểm nóng nhất được ghi nhận khi mô hình El Nino xuất hiện, đe dọa sẽ có nhiều trận mưa như trút nước hơn, những đợt nắng nóng kéo dài và nguy hiểm hơn cũng như các đợt hạn hán và cháy rừng dữ dội hơn.
Diễn giả Amali Tower, người sáng lập và giám đốc điều hành của tổ chức phi lợi nhuận Climate Refugees nói: “Không còn nghi ngờ gì nữa, biến đổi khí hậu đang thúc đẩy sự dịch chuyển toàn cầu, mỗi năm có khoảng 23 triệu người phải di dời do các thiên tai liên quan đến khí hậu và thời tiết. Tower cho biết 80% -90% người tị nạn xuyên biên giới trên toàn thế giới đến từ các quốc gia được coi là dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Bất chấp thực tế đó, tị nạn khí hậu vẫn chưa phải là một phạm trù pháp lý được công nhận theo luật pháp quốc tế. Theo Công ước về Người tị nạn năm 1951, các cá nhân chỉ có thể xin tị nạn nếu bị ngược đãi vì chủng tộc, tôn giáo, hoặc quan điểm chính trị.
Tower cũng trình bày chi tiết về luật pháp Hoa Kỳ được đề xuất và những thay đổi chính sách của Liên Hợp Quốc có thể mở rộng các quy tắc tị nạn, bao gồm cả những người tị nạn vì khí hậu.
Andrew Rosenberg, trợ lý giáo sư Khoa học Chính trị tại University of Florida và là tác giả cuốn sách “Undesirable Immigrants: Why Racism Persists in International Migration” (Những người nhập cư không mong muốn: Tại sao phân biệt chủng tộc vẫn tồn tại trong di cư quốc tế) cho biết phản ứng ở phương Tây cho đến nay là tạo ra cái mà ông gọi là “pháo đài khí hậu”.
Rosenberg viện dẫn chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lịch sử và di sản của chủ nghĩa thực dân, ông cho rằng ác cảm chống người di cư đang gia tăng ở phần lớn phương Tây có thể sẽ tăng lên khi số lượng người di cư không ngừng giảm. Ông suy đoán: “Với những điều kiện có định kiến, bất bình đẳng và oán giận ở Bắc bán cầu, tôi nghĩ phương Tây khó có thể có ý chí chính trị để giúp đỡ người tị nạn.”
Thay vào đó, Tower nói, nhiều người đang đầu tư vào việc thắt chặt biên giới, chi tiêu gấp đôi cho việc cải thiện biên giới hơn là đầu tư vào tài chính khí hậu mà nếu không có thể giúp các quốc gia đang phát triển vượt qua thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra một cách hiệu quả hơn.
Đối với diễn giả Hossein Ayazi, nhà phân tích chính sách của chương trình Công lý Toàn cầu tại University of California, Berkeley, sự hợp lưu của các lực lượng đan xen này – điều mà nhiều người gọi là “đa khủng hoảng” – dẫn đến một số câu hỏi quan trọng, chủ yếu trong số đó là các quốc gia xây dựng khả năng phục hồi trước khủng hoảng khí hậu như thế nào?
Đầu năm nay, Ayazi và các đồng nghiệp của ông đã công bố kết quả của một cuộc khảo sát xem các tổ chức môi trường và nông nghiệp trên khắp châu Phi đang giải quyết câu hỏi này. Nhiều người chỉ ra sự xuất hiện của các nền kinh tế địa phương được xây dựng xung quanh các hệ thống lương thực bền vững và sự thay đổi khỏi sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, bao gồm cả nhiên liệu hóa thạch, vốn thường làm giàu cho các quốc gia giàu có hơn với cái giá phải trả là hệ sinh thái địa phương và khí hậu toàn cầu.
Ayazi cho biết: “Điều này có nghĩa phải thay đổi chính sách về những điều kiện buộc phải di cư,” đồng thời ông lưu ý rằng sự hỗ trợ cho những nỗ lực như vậy của các quốc gia giàu có, là “chìa khóa để giải quyết cả khủng hoảng khí hậu và giảm thiểu tình trạng di cư do khí hậu gây ra.”