Cuộc vây bắt bố ráp nhóm người Thượng tham gia vào vụ bạo loạn đẫm máu ở hai đồn công an ở xã Ea Ktur và Ea Tu vào rạng sáng ngày 11 tháng Sáu đang có nguy cơ biến thành một cuộc xung đột sắc tộc và trả thù theo đúng nghĩa đen.
Toàn bộ năm tỉnh thành Tây Nguyên đặt trong trạng thái chiến tranh. Lực lượng công an, mật vụ, cảnh sát cơ động chống khủng bố, quân đội hùng hậu được triển khai. Bất kể ai, với kiểu hình và ngữ âm “dân tộc”, mặc quần áo rằn ri đều trở thành đối tượng bị truy bắt và xét hỏi. Một clip trên MXH cho thấy đám đông đầy phẫn nộ cùng lực lượng công an đang trói gô hai người đàn ông dân tộc mặc chiếc quần rằn ri khi họ trên đường đi làm rẫy như những kẻ tội phạm, mặc cho hai thanh niên ú ớ thanh minh bằng thứ tiếng Việt không rõ ràng. Theo thông báo của Bộ Công an, hiện đã có 45 đối tượng tình nghi bị bắt giữ và cuộc bố ráp vẫn tiếp tục với qui mô mở rộng chưa từng có.
Điều đáng lo ngại là bầu không khí đầy kích động thù hận đang lây lan, khuyến khích các hành động bạo lực tập thể. Sáu viên công an và hai viên chức hai xã bị tử thương đều là người Nghệ An, Thanh Hóa và đây cũng là sắc dân nhập cư đa số, đông đảo nhất ở năm tỉnh Tây Nguyên sau 1975. Với đặc tính cấu kết vùng miền mạnh mẽ, họ thậm chí tổ chức các đội nhóm đi lùng bắt người dân tộc thiểu số như thời Trung cổ và sẵn sàng sử dụng bạo lực mà không có sự ngăn cản của phía chính quyền.
Cuộc bố ráp đang biến thành một cuộc trả thù sắc tộc không kiểm soát có thể tạo ra xung đột sâu sắc thêm, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Điều đó cần phải chấm dứt ngay. Cuộc khủng hoảng này cần nhanh chóng khép lại bằng tiến trình luật pháp. Điều quan trọng hơn là Hà Nội nhìn nhận ra ngọn nguồn của mâu thuẫn dẫn đến tội ác và bạo loạn như đã xảy ra trong nhiều thập niên qua và vẫn nhức nhối tới hôm nay dù nhà cầm quyền đã tiêu tốn một nguồn lực khổng lồ. Vấn đề cần được giải quyết ở gốc rễ chứ không phải bằng bạo lực và đàn áp sắt máu.
Bỏ qua nguyên nhân trực tiếp gây cuộc bạo loạn có tổ chức này có thể có những tác nhân “nước ngoài” tác động. Tôi sẽ chỉ tập trung vào phân tích các nguyên nhân gây ra những mâu thuẫn và phẫn uất xã hội đã tồn tại quá lâu ở Tây Nguyên nói riêng.
Đó là các mâu thuẫn về văn hóa, bất công trong chính sách quản lý đất đai, phân biệt đối xử và cướp bóc một cách có hệ thống của chính quyền địa phương đối với những sắc dân thiểu số Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có các yếu tố lịch sử và chủng tộc cần phải được xem xét một cách khách quan và toàn diện. Chính các vấn đề này mới là căn nguyên của tội ác và bạo loạn, bất ổn xã hội. Những sai lầm cần được triệt để khắc phục dù phải hy sinh các lợi ích phe nhóm đang chiếm ưu thế quyền lực vượt trội ở hệ thống cầm quyền Việt Nam.
Tây Nguyên trước 1975
Ngược lại tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam thì đến khi chúa Nguyễn Hoàng nhập Phú Yên năm 1611 tới thời Gia Long thống nhất non sông một dải từ mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan năm 1802, thì Tây Nguyên vẫn chưa nằm trong cương thổ Việt Nam. Vùng cao nguyên và núi non mênh mông này là nơi sinh sống của các sắc dân Kor, Ktu, Ba Na, Xơ Đăng, Hre, Jrai… và họ không khuất phục trước sự cai trị hà khắc của nhà Nguyễn.
Những cuộc nổi dậy mạnh mẽ chống lại Nguyễn triều được biết tới với tên gọi “loạn mọi Đá Vách”. Đá Vách là tên gọi khác của núi Thạch Bích, phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Cuộc nổi dậy của họ kéo dài suốt nửa thế kỷ và Nguyễn triều đã phải nhọc công bình định với hao tổn to lớn.
Vào thời Pháp thuộc, hệ thống quyền lực hành chính và những hạ tầng xã hội văn minh được người Pháp bắt đầu đặt nền móng từ những năm 1891. Với việc phát hiện ra cao nguyên Lang Biang bởi nhà khoa học lừng danh Yersin và theo đề nghị của ông, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng thành phố Đà Lạt, chính thức trực tiếp can thiệp vào vùng đất Tây Nguyên kể từ 1900. Đến Tháng Năm 1949, người Pháp trao quyền quản lý Cao Nguyên Trung Phần với xứ Thượng Nam Đông Dương cho chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Quốc trưởng Bảo Đại tách riêng Cao Nguyên Trung bộ ra và lập qui chế hành chính đặc biệt có tên Hoàng Triều Cương Thổ vào Tháng Tư 1950. Vùng này gồm năm tỉnh là Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Pleiku, Daklak, Kontum. Đến 1955, chính quyền VNCH dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm mới giải thể qui chế này và sát nhập “Hoàng Triều Cương Thổ” vào lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, Tây Nguyên hay Cao nguyên Trung phần là phần đất cuối cùng được sát nhập vào cương thổ Việt Nam trong lịch sử hiện đại.
Trong suốt quá trình người Pháp can thiệp vào Tây Nguyên, việc nhập cư được kiểm soát khá chặt chẽ. Người Pháp duy trì chế độ tự trị của vùng đất này và hạn chế người Kinh nhập cư, ngoại trừ những công ty trồng café, cao su được quyền tuyển người và đưa người Kinh vào làm việc với số lượng giới hạn. Việc thành lập các đồn điền và di thực các loại cây công nghiệp chiến lược là café, cao su… về trồng tại cao nguyên Lang Biang đã sớm có những kết quả kinh tế to lớn, cùng với những hạ tầng kỹ thuật, đô thị được xây dựng một cách khoa học đã thay đổi đời sống của người dân địa phương. Đà Lạt trở thành thủ đô của Cao Nguyên Trung Phần.
Người Pháp rất tôn trọng văn hóa và tập tục bản địa của người Thượng – tên gọi chung cho các dân tộc Tây Nguyên. Dưới thời Quốc gia Việt Nam, “Qui chế 16” của Quốc trưởng Bảo Đại thừa nhận các quyền sở hữu đất đai của người Thượng, cũng như tôn trọng tập tục bộ lạc và chức sắc kế truyền…
Nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, chủng tộc, tài nguyên, thổ nhưỡng, khí hậu của người Pháp về Tây Nguyên cách đây hơn 100 năm phải khiến cho giới trí thức Việt sau hơn một thế kỷ mới được tiếp cận phải sửng sốt, thán phục. Một ví dụ tiêu biểu là bản trường ca Đam Săn của dân tộc Ede (Rhade) đã được chuyển ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng Pháp bởi Léopold Sabatier từ 1929. Rất lâu sau đó, những nhà “văn hóa Việt Nam” mới được biết tới kiệt tác này qua bản dịch của ông.
Cuộc di cư lớn đầu tiên của người Kinh vào Tây Nguyên dưới thời VNCH được ghi nhận vào giai đoạn 1954 khi gần một triệu người Bắc di cư vào Nam. Trong số đó, 54,551 người đã được sắp xếp định cư ở Đà Lạt và Lâm Đồng. Cho đến 1975, toàn bộ dân số khu vực Tây Nguyên ước chừng khoảng 1.2 triệu dân với đa phần là dân bản địa chiếm khoảng 70%. Chính sách của VNCH sau khi sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào Trung phần, gọi là Cao nguyên trung phần (hay Tây Nguyên) chú trọng xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, gia tăng quyền lực hành chính.
Song đối với các dân tộc bản địa, chính quyền VNCH hết sức tôn trọng văn hóa, tập tục, hỗ trợ kinh tế, hướng dẫn nghề nghiệp, kỹ thuật lâm nghiệp để họ có đời sống tốt hơn. Mối quan hệ giữa chính quyền, người Kinh nhập cư và các dân tộc bản địa được ghi nhận là tốt đẹp và hòa hảo. Mặc dù vậy, việc sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ và loại bỏ cơ chế tự trị của vùng đất này của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã tạo cớ để cho những mâu thuẫn với người Thượng phát sinh. Điều này đã đem tới cơ hội để những người cộng sản khai thác và lợi dụng triệt để.
Tây Nguyên sau 1975
Sau 1975, nhà cầm quyền Việt Nam thực hiện chính sách di dân cưỡng bức một lượng lớn dân cư thành phố là những gia đình sỹ quan, viên chức làm việc trong chính quyền cũ tập trung vào các “vùng kinh tế mới” mà thực chất là những nơi rừng thiêng nước độc, không có hạ tầng để khai hoang và dọn dẹp bom mìn sau chiến tranh. Một lượng lớn dân nghèo nông thôn từ miền Bắc với đa số sắc dân ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Hà Tây… cũng được khuyến khích vào làm việc trong các lâm trường quốc doanh theo chương trình phát triển kinh tế mới, nhằm giảm sức ép dân số ở miền Bắc và tăng nguồn lao động cho Tây Nguyên.
Theo thống kê, Tây Nguyên là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất cả nước. Việc tăng dân số chủ yếu là tăng dân số cơ học bởi nhập cư trong đó có hai nguồn là nhập cư theo kế hoạch và nhập cư tự do. Chỉ riêng tỉnh Đắk Lắk, từ 1976 đến 2005, đã có 56,490 hộ nhập cư theo diện tự do với 289,688 nhân khẩu.
Dân số Tây Nguyên tính đến 2012 đã đạt khoảng 5.379 triệu dân, gấp 4.5 lần so với 1976. Tỷ lệ nhập cư tự do của toàn vùng trong bốn thập niên sau chiến tranh giao động 54% – 60% mức tăng dân số và xu hướng này ngày một cao hơn.
Việc nhập cư ồ ạt thiếu kiểm soát, thiếu chính sách phát triển kinh tế xã hội một cách khoa học, căn cơ đã gây ra vô vàn các hệ lụy. Chỉ trong hơn bốn thập niên, hơn 80% rừng nguyên sinh ở Tây Nguyên trên thực tế đã biến mất và bị chuyển đổi thành rừng trồng cây công nghiệp, cây lấy gỗ làm nguyên liệu, sắn và các loại lương thực ngắn ngày. Rừng nguyên sinh về cơ bản đã không còn. Cùng với việc phát triển thủy điện ồ ạt, đô thị hóa nhanh cũng góp phần tàn phá môi trường gây ra tình trạng suy thoái tài nguyên đất trên diện rộng và nguồn nước ngầm sụt giảm về lâu dài sẽ gây ra thảm họa sinh thái trong tương lai không xa.
Năm 2004, một khảo sát về dân số và xã hội cho thấy tỷ lệ người dân tộc bản địa chỉ còn khoảng 25% dân số Tây Nguyên (so với tỷ lệ 70% trước 1975) và là những đối tượng rất dễ bị tổn thương bởi các chính sách đất đai và hộ khẩu của nhà cầm quyền. Từ vị trí là chủ nhân của Tây Nguyên, những dân tộc bản địa này đã trở thành sắc dân “thiểu số”. Mặc dù của nhà cầm quyền luôn nói quan tâm tới đời sống cho các dân tộc thiểu số và 54 dân tộc anh em đều bình đẳng. Tuy nhiên, thực tế và chính sách thì cả một vực thẳm.
Xung đột về văn hóa và bị tước đoạt sinh kế và nguồn lợi
Nhà nghiên cứu dân tộc học người Pháp Jacques Dournes khi nghiên cứu về văn hóa những dân tộc Tây Nguyên có viết “Nền văn minh Jrai là một nền văn minh thảo mộc”. Nhà văn Nguyên Ngọc nói “Người Kinh thấy rừng là thấy gỗ, người Thượng thấy rừng là thấy Mẹ, thấy cội nguồn sự sống”.
Không chỉ là văn minh Jrai, cả nền văn minh Tây Nguyên là nền văn minh thảo mộc, có nghĩa là Rừng. Văn hóa bản địa gắn liền với rừng đại ngàn. Những dân tộc Tây nguyên có đức tin riêng biệt, có văn hóa và đời sống vật chất, tâm linh gắn liền với Rừng Tây Nguyên. Từ ngàn đời nay, người Thượng sống trong những tán rừng nguyên sinh và họ coi Rừng là Mẹ. Họ không phá rừng để xây biệt phủ bằng gỗ quí như ông tướng công an Trần Kỳ Rơi hay tất cả các quan chức cộng sản người Kinh khác. Họ không bao giờ lấy từ rừng nhiều hơn cái cần thiết cho nhu cầu tối thiểu, gỗ chỉ đủ dựng một căn nhà đơn sơ, thú chỉ đủ cho sinh tồn.
Người Thượng Tây Nguyên khi chặt một cây rừng, họ làm lễ xin Thần linh và tạ lỗi với cây rừng vì đã làm đau rừng. Đó là thứ Đạo Đức của Tự Nhiên – điều hoàn toàn xa lạ với những người Kinh và các sắc dân nhập cư sau 1975. Sự khác biệt đến đối lập trong cách nhìn nhận và ứng xử với Thiên Nhiên, mà ở đây là Rừng, giữa người Kinh và Thượng đã là một mâu thuẫn ghê gớm.
Nhiều người cho rằng người Thượng Tây Nguyên với tập tục đốt nương làm rẫy gây nên nạn phá rừng. Điều này là một nhận thức sai và mang tính qui chụp. Bởi lẽ, người Thượng chỉ đốt rẫy làm nương trong một vùng bao trùm hoàn toàn bởi rừng nguyên sinh. Bốn mặt là rừng nguyên sinh. Họ coi đó là mượn Mẹ Thiên Nhiên một mảnh đất và sẽ trả lại sau vài vụ mùa. Những ai từng sống ở rừng nguyên sinh Tây Nguyên sẽ thấy rừng phục hồi rất nhanh và rất mạnh. Một mảnh rẫy như thế sau vài vụ mùa được trả lại Mẹ Thiên Nhiên sẽ tái sinh rất nhanh. Người Thượng không chiếm hữu nương rẫy, họ chỉ mượn của Rừng một thời gian và trả lại Rừng sau đó.
Nhưng điều này đã không còn nữa. Khi người Kinh xuất hiện, họ đã chặt phá phần lớn rừng nguyên sinh Tây Nguyên và thay thế bằng những cánh rừng trồng cây công nghiệp, họ chiếm hữu nương rẫy, đất đai và đẩy những người dân tộc thiểu số Tây Nguyên ra khỏi nguồn sống của họ từ ngàn đời nay. Phương thức canh tác độc canh và các hoạt động khai thác tận diệt, phát triển thủy điện bừa bãi và quá trình đô thị hóa của người Kinh đã thay đổi hệ sinh thái Tây Nguyên hoàn toàn. Những cánh rừng nguyên sinh giờ chỉ còn trong ký ức. Rừng nguyên sinh không còn, nương rẫy không còn, những sắc dân thiểu số Tây Nguyên bị đẩy tới chỗ vong bản về văn hóa, cùng kiệt về kế sinh nhai.
Sau 1975, toàn bộ tài nguyên đất, rừng Tây Nguyên được quốc hữu hóa để hình thành các đơn vị kinh tế lớn. Ban đầu là các binh đoàn quân đội làm kinh tế, tiếp theo là các liên hiệp xí nghiệp nông lâm công nghiệp, sau đó là các nông trường, lâm trường thuộc trung ương hay tỉnh quản lý. Đến năm 1988, chỉ tính các đơn vị trung ương trên tỉnh Gia Lai-Kontum có tất cả 15 nông trường quản lý 50,000 hecta đất và 41 lâm trường quản lý 862,000 hecta rừng. Nếu tính cả các nông lâm trường của Binh đoàn 15 và của tỉnh, huyện… các loại là 1,500,000 hecta, chiếm gần 60% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Cuối thập niên 1980 việc phá rừng tràn lan và tình trạng các nông lâm trường quốc doanh làm ăn bết bát, Nhà nước cộng sản Việt Nam đã chủ trương thu hẹp diện tích quản lý của các chủ thể nhà nước nhưng các nông lâm trường này vẫn quản lý phần lớn tài nguyên đất rừng của Tây Nguyên. Theo Bộ Tài nguyên Môi trường, đến năm 2012, số hộ gia đình, cá nhân được giao đất lâm nghiệp chỉ chiếm 1.5% tổng số hộ nông nghiệp với tổng diện tích được giao chỉ chiếm 2.55% diện tích đất lâm nghiệp.
Đối với cộng đồng dân cư buôn làng, chỉ có 2.1% số buôn làng dân tộc tại chỗ được giao đất lâm nghiệp với diện tích được giao chỉ bằng 0.96% diện tích đất lâm nghiệp của vùng. Như vậy, từ vị trí chủ nhân của cao nguyên đại ngàn, người Thượng Tây Nguyên bị tước đoạt gần như toàn bộ quyền sở hữu đất và rừng. Trên thực tế, phần diện tích mà họ được giao phần lớn là đất rừng nghèo kiệt, rừng tre nứa và nền đất dốc rất khó để canh tác. Thiếu đất canh tác trở thành một hiện tượng phổ biến đối với nhóm dân tộc Tây Nguyên.
Theo số liệu điều tra của Viện Dân tộc học, trước năm 2000, trong năm tỉnh Tây Nguyên, Dak Lak là tỉnh mà tình trạng thiếu đất canh tác nghiêm trọng hơn cả. Năm 1997, khi điều tra tại 29 xã, 81 buôn của người dân tộc tại chỗ, kết quả cho thấy:
Chỉ có 7/29 xã và 15/81 buôn có đủ đất canh tác; 9/29 xã và 17/81 buôn thiếu 1/3 đất canh tác; 6/29 xã và 28/81 buôn thiếu ½ đất canh tác; 7/29 xã và 21/81 buôn thiếu 2/3 đất canh tác (Vũ Đình Lợi, 2000).
Đói nghèo khiến các buôn làng Tây Nguyên tan rã nhanh hơn bất cứ sự đàn áp nào. Chính vì lý do đó, người Thượng đã phải khai phá và xâm canh những cánh rừng ở xa, chiếm lại đất của các nông lâm trường nơi mà trước đây là rừng, là nương rẫy của họ. Tình trạng tái chiếm, thu hồi, xung đột bởi đất đai đã nhức nhối từ lâu khi bắt đầu chính sách quốc hữu hóa toàn bộ đất và rừng Tây Nguyên để giao cho các nông lâm trường quốc doanh từ sau 1975. Người dân tộc tại chỗ không có đất canh tác, không có sinh kế, bị bức tới “bần cùng sinh đạo tặc”.
Năm 2000, nhóm nghiên cứu gồm Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng đã đưa ra một cảnh báo trong “Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên” mà nếu như nhà cầm quyền thực sự nghiêm túc tiếp thu thì đã không có những xung đột đẫm máu trường hợp người nông dân cầm súng Đặng Văn Hiến hay ở cuộc bạo loạn ngày 11 Tháng Sáu ở hai xã Ea Ktur, Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, Dak Lak vừa qua.
Xin trích lại nguyên văn lời cảnh báo xác đáng của nhóm nghiên cứu này:
… Sẽ không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khuyết điểm của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì “vấn đề dân tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là đổ máu, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẻ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường…
Xung đột vì phân biệt đối xử và thù hận do yếu tố lịch sử
Có thể nói, phương thức quản lý rừng và đất đai ở Tây Nguyên hiện nay vô cùng phi lý, bất công và kém hiệu quả. Tính đến 31 Tháng Mười Hai 2012, việc giao đất rừng cho hộ gia đình cá nhân và cộng đồng Tây Nguyên chỉ đạt 3.51% diện tích đất lâm nghiệp. Trong khi đó, con số tương ứng của cả nước là 28.69%.
Vấn đề phân phối, giao đất cũng rất nhiều tiêu cực. Theo số liệu năm 2012, trong 1,205,047 hộ được giao đất có đến 338,424 hộ/cá thể không phải là hộ nông lâm ngư nghiệp nhưng vẫn được giao đất sản xuất. Đa phần trong số này là người Kinh và những người làm trong bộ máy công quyền. Những cánh rừng màu mỡ nhất, những thửa đất, rừng, mặt hồ, sông đẹp nhất thì đều là của người Kinh và cán bộ. Tình trạng vi phạm về quản lý đất đai trên Tây Nguyên là vô cùng phức tạp và nhức nhối khi lợi tức từ đồn điền và giá đất nông nghiệp tăng phi mã khoảng 15 năm trở lại đây.
______________
Trên thực tế, người dân tộc bản địa bị tước đoạt sinh kế, bị tách khỏi rừng là môi sinh và cội nguồn của họ. Họ bị gạt ra ngoài các chính sách hỗ trợ mà đáng nhẽ ra các dân tộc thiểu số phải được quan tâm như giáo dục, y tế…
Thật khó tin khi có tới 35.17% người dân tộc tại chỗ không được đến trường, mù chữ. Những con số bi thảm này của Tổng cục thống kê cung cấp kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 đã cho thấy mức độ “quan tâm” của đảng và nhà nước Việt Nam như thế nào trong hơn 40 năm qua!
Để sinh tồn, cộng đồng người Thượng Tây Nguyên từ vai trò chủ nhân ông của Tây Nguyên đại ngàn trong một quá khứ không xa lắm, nay đã trở thành những dân tộc vong bản về văn hóa, chấp nhập các công việc tay chân hạ bạc cho người Kinh nhập cư – những người đã rất nhanh chóng chiếm hữu được phần lớn tài nguyên đất và rừng Tây Nguyên. Tại sao lại có sự bất công đến thế?
Điều này có thể liên quan đến trong giai đoạn chiến tranh, các người Thượng Tây Nguyên đã tham gia lực lượng quân đội VNCH và họ trở thành những chiến binh quả cảm, chống Cộng hăng hái nhất. Thiệt hại mà các lực lượng người Thượng gây ra cho bộ đội Bắc Việt là rất lớn. Đã có nhiều cuộc trả thù đẫm máu do bộ đội Bắc Việt tấn công vào các cộng đồng người Thượng như vụ thảm sát tại Đắc Sơn năm 1967 khi hai tiểu đoàn bộ đội đã giết hại 252 người Thượng. Nạn nhân đa số là phụ nữ và trẻ em.
Ngay cả khi hòa bình lập lại, chính sách hà khắc tiếp tục được thi hành và như trên tôi phân tích ở phần trên, Hà Nội đã thực hiện một cách hệ thống việc triệt hạ sinh kế, không gian sống và văn hóa của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên bằng các chính sách hạn chế sự tiếp cận tài nguyên đất và rừng của người Thượng.
“Con giun xéo lắm cũng quằn” là một phản ứng sinh tồn tự nhiên và không có gì lạ khi đã có rất nhiều cuộc nổi dậy của người Thượng mà truyền thông nhà nước không bao giờ đưa tin một cách khách quan, trung thực. Năm 1999, “nhà nước Degar” được thành lập. Sự kiện này đã tạo ra “cơ hội vàng” cho những sỹ quan công an thăng tiến thần tốc lên đỉnh cao danh vọng bằng các “thành tích” trấn áp sắc dân thiểu số Tây Nguyên mà phải kể đến cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang và cựu Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.
Xung đột về tôn giáo và tín ngưỡng
Người Thượng Tây Nguyên có đức tin riêng, họ tin vào Giàng và những thần linh Tự Nhiên ẩn trú trong những khu rừng nguyên sinh. Văn hóa thảo mộc của người Thượng gắn liền với Rừng và Rừng cung cấp nguồn sống cho họ. Bị tách khỏi rừng, những cộng đồng dân tộc Tây Nguyên đang vong bản về văn hóa và dần dần tiêu biến giống như sắc dân Mon Khmer, Chiêm Thành trong quá khứ.
Bên cạnh tín ngưỡng có từ ngàn đời nay, người Thượng còn là những con chiên sùng kính Đức Chúa Trời. Thiên chúa giáo đã du nhập vào Tây Nguyên theo bước chân của các nhà truyền đạo Tây Phương trước khi người Pháp khai đặt hệ thống quyền lực hành chính ở vùng đất này. Đạo Tin Lành du nhập vào Tây Nguyên từ cuối những năm 20, 30 của thế kỷ trước cùng với Phật giáo Hòa Hảo. Từ đầu những năm 1990 trở đi, đạo Tin Lành phục hồi và phát triển nhanh trong nhiều vùng người Thượng Tây Nguyên. Đến Tháng Mười Hai 2020, số lượng tín đồ đạo Tin Lành ở năm tỉnh Tây Nguyên là 529,410 người, trong đó tín đồ là người dân tộc thiểu số khoảng 511,450 người. Có thể thấy Tây Nguyên là nơi phong phú các tôn giáo cùng tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, việc các tôn giáo như Tin Lành, Thiên Chúa giáo, Phật giáo Hòa Hảo không nằm trong vòng kiểm soát của nhà cầm quyền Việt Nam phát triển số lượng tín đồ đã khiến cho giới chức chính quyền cộng sản lo ngại.
Các cuộc đàn áp tôn giáo được ghi nhận ở mức độ nghiêm trọng trong những năm gần đây đã khiến cho Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về quyền tự do tôn giáo” vào ngày 4 Tháng Mười Hai 2022. Ngày 3 Tháng Năm 2023, thậm chí Hoa Kỳ còn muốn đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia “đáng quan ngại về tự do tôn giáo”.
Đó không phải chỉ là những lời cảnh báo suông. Việc bị đưa trở lại vào danh sách các quốc gia đàn áp về tôn giáo, tự do báo chí và vi phạm nhân quyền sẽ khiến cho Việt Nam mất đi cơ hội tiếp cận những nguồn hỗ trợ tài chính và đầu tư quốc tế quan trọng để chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch và tiếp cận các công nghệ tiên tiến của Tây phương. Điều vô cùng cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng.
Tuy vậy, quan sát cách hành xử của giới chức Việt Nam đối với những nhà bất đồng chính kiến trong thời gian qua, cũng như việc gia tăng đàn áp tôn giáo ở Tây Nguyên, tôi rất ngạc nhiên. Bởi dường như giới chức cộng sản Việt Nam đang tự mâu thuẫn giữa mong muốn phát triển, hội nhập với cái gọi là “an ninh quốc gia”.
Dường như, có một lực kéo rất mạnh đang muốn Việt Nam quay trở lại bóng tối cô lập. Cuộc đàn áp và bố ráp nhóm người Thượng ở Dak Lak đang trở nên hỗn loạn và đầy bạo lực. Tôi lo sợ rằng đây sẽ là điểm khởi đầu cho một quá trình công an hóa và quân sự hóa tồi tệ bộ máy nhà nước vốn đã hết sức chuyên chế và độc tài.
Kết luận
Với những phân tích và các kết quả nghiên cứu về xã hội, dân tộc, lịch sử, văn hóa được viện dẫn trong bài viết này, người viết mong muốn cung cấp cho các nhà lãnh đạo Việt Nam một cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về căn nguyên mâu thuẫn, bất ổn ở Tây Nguyên. Bạo lực không thể và không bao giờ là giải pháp cho những sai lầm mà chính họ gây ra. Những sắc dân “thiểu số” Tây Nguyên, cũng giống như người Kinh, cần phải được đối xử công bằng, được tôn trọng. Họ cần có sinh kế, được học hành và có nghề nghiệp. Chẳng nhẽ, những điều vô cùng giản dị đó là quá xa vời ở chế độ “gấp vạn lần tư bản” hay sao?
Cuối cùng, để kết thúc bài phân tích tổng hợp này, tôi xin trích dẫn một đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Xuân Tình:
“Trong lịch sử của các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, chưa bao giờ vấn đề đất đai lại nóng bỏng như hiện nay… Trong đó, tính không phù hợp của chính sách đất đai của Nhà nước với truyền thống sở hữu cộng đồng của các dân tộc tại chỗ được coi là vấn đề xuyên suốt”.
Bộ Luật đất đai của Việt Nam đã qua rất nhiều lần sửa đổi, nhưng những tồn tại, mẫu thuẫn về căn bản thì vẫn còn nguyên. Có chăng, chỉ là những sửa đổi câu chữ, “vẽ rắn thêm chân”. Và ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng vẫn khẳng định “quyền sử dụng đất không phải quyền sở hữu”. Cái mệnh đề quái gở “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước là đại diện chủ sở hữu” vẫn tồn tại như một lá bùa ma quỉ khiến cho đất nước không thể nào thay đổi, những mâu thuẫn, bất công, tệ nạn ngày càng nhức nhối, chồng chất oán hận của người dân Tây Nguyên nói riêng và khắp nơi trên mảnh đất hình chữ S Việt Nam đang rên xiết tiếng kêu than.
________
Tác giả gửi Saigon Nhỏ