1.
Ông bệnh nặng có vài tháng thì qua đời. Bà rơi vào khoảng không của một nỗi cô đơn đặc quánh. Gặp ai cũng nhớ ông, thấy gì cũng nghĩ đến ông. Cả năm trời trôi qua bà vẫn giữ y nguyên mọi thứ trong nhà. Tủ áo quần của ông, đồ dùng cá nhân, phòng điêu khắc gỗ…, tất cả đều còn nguyên vẹn, như thể ông vừa đi vắng mặt vài tiếng đồng hồ. Trên computer của bà, mỗi khi bật lên, là trước nhất hiện lên gương mặt ông tươi cười hiền lành, bà nhìn ông, cười chào qua làn nước mắt trước khi bắt đầu làm việc.
Công việc, chỉ có công việc, mới là cái phao để bà khỏi bị hút vào cõi hư vô của nỗi cô đơn đáng sợ đó. Bà phủ đầu mình với những núi công việc ngồn ngộn. Là chủ tịch của một tổ chức phi lợi nhuận chuyên trang bị thiết bị y tế cho bệnh viện bằng doanh thu của một cửa hàng thrift store (cửa hàng đồ cũ), bà làm việc như không còn có ngày mai. Bà hoàn toàn bỏ qua việc chăm sóc bản thân, chẳng buồn ngó đến thân thể hay tóc tai. Bà bặt giao với bạn bè hay lễ tiệc với con cháu, vì đi đâu làm gì cũng chỉ làm bà nhớ ông thêm mà thôi. Hôm gặp bà dặn tôi qua làn nước mắt “con phải tập cho mình có chút độc lập. Lâu lâu đi chơi gần đi chơi xa một mình, tự quyết định những việc không lắm quan trọng một mình. Có dịp thì nên tách mình ra khỏi cái cái khối chung vợ-chồng. Chứ như ta cả đời không có gì là của riêng, làm riêng. Giờ đây không còn ông bên cạnh ta như con diều đứt dây, cứ vật và vật vờ, không còn biết phương hướng để bay đi đâu nữa”.
Rồi một ngày định mệnh kia, giữa những ngày tháng mênh mông buồn, người bạn thân thuở thiếu thời đưa cho bà tờ báo địa phương. Trong mục thông cáo linh tinh có một mẩu tin tìm người thân thất lạc. Người được tìm mang một biệt danh rất đặc biệt, một cái tên mà chỉ có bà, người bạn thân, và một hai người nữa biết mà thôi. Cầm tờ báo trên tay, nhìn chăm chăm vào cái tên gọi vui thuở đôi mươi của mình, bà run rẩy, mắt nhoè đi. Lẽ nào…?
Đến mấy ngày sau bà vẫn chưa hết bàng hoàng. Bà như sống trong một cơn mộng mị, lất lây giữa gương mặt tươi cười tươi hiền lành của ông trên màn hình vi tính và một số điện thoại lạ hoắc của mẩu tin tìm người trên báo. Bà hết cầm lên rồi lại bỏ xuống mảnh giấy nhàu nát. Bà không ngủ được, ăn cũng chẳng ngon, làm việc cũng không ra trò trống gì. Mãi đến mấy ngày sau thì bà quyết định gọi đến số điện thoại ấy. Run run cầm điện thoại ép sát vào tai, bà xúc động đến nỗi khi đầu dây bên kia trả lời, bà đứng trơ ra như phỗng đá, không thể thốt lên được một lời nào. Một hai phút im lặng trôi qua, giọng người đàn ông đầu dâu bên kia nói nhỏ dịu dàng: “Em đó phải không? Anh đã chờ em suốt 60 năm dài”. Bà bỗng oà lên nức nở, khóc như chưa từng được khóc bao giờ…
Linh tính bà quả không sai. Người ấy không ai khác hơn là Don. Don của bà! Người yêu đầu đời của bà!
2.
Khi ấy nàng chỉ mới 16 và chàng 20. Yêu nhau được hai năm, khi nàng tròn 18, cả hai dự định làm đám cưới. Cha nàng phản đối kịch liệt và tìm mọi cách ngăn gián tình yêu của đôi trẻ, vì cho rằng Don không xứng đáng với cô con gái rượu của mình. Ông quyết liệt đến nỗi từ Canada gửi bà qua Anh để sống với họ hàng bên đó. Người cha làm đủ mọi cách để bà quên Don. Và bà đã… quên thiệt. Còn trẻ măng, bà đâm đầu đi lấy một gã chẳng ra gì. Hai năm sau thì li dị, bà ra đi với một cậu con trai còn ẵm ngữa. Cuộc sống ở Anh những năm sau đó thật buồn bã cô đơn, bà quyết định dắt con về lại Canada lập nghiệp trở lại. Thêm một vài mối tình chẳng đâu ra đâu, rồi bà gặp ông – người chồng quá cố, thì bà tìm được tình yêu và hạnh phúc đích thực của hơn 50 năm dài. Cuộc sống viên mãn làm bà không còn nghĩ nhiều đến mối tình đầu của mình năm nào.
Nhưng Don thì không. Suốt 60 năm ròng rã ông vẫn nhớ, vẫn yêu, vẫn hoài tìm kiếm. Ông cũng có lập gia đình một lần, nhưng trái tim ông đã bị hình bóng của bà chiếm trọn, không còn chỗ cho người khác, nên rồi lại vò võ một mình. Cách đây chừng mười năm, nghe phong phanh rằng bà đã về lại nơi nơi chốn cũ, thế là cứ một hai tháng ông lại đăng một mẩu tin tìm người nơi tờ báo địa phương. Ông cần mẫn như thể một tín đồ ngoan trông cậy vào cái ngày mà lời ước nguyện của mình sẽ được chấp thuận.
Và nó đã đến.
Buông điện thoại xuống bà thừ người ra. Bao nhiêu kỷ niệm cũ của thời trăng tròn quay cuồng trong mái đầu bạc phơ. Vấn vương, hồi hộp, ngóng chờ xen lẫn một nỗi day dứt mỗi lần nghĩ đến người chồng quá cố. Bà cảm thấy có lỗi với chồng khi trái tim mình lại đập loạn nhịp, nên không trả lời những cuộc điện thoại tiếp theo của ông Don. Bà nằm bẹp trên giường mấy ngày. Cô con gái lớn biết chuyện, khuyên mẹ hãy sống với hiện tại và tương lai, rằng cha cô chắc chắn sẽ vui lòng khi thấy bà hạnh phúc. Thế rồi bà quyết định đi gặp lại ông Don, một cuộc tương phùng sau 60 năm ròng rã. Ngày bà lái xe đi, cô con gái tiễn mẹ ra cổng, không quên dặn với một câu “Mom, don’t do anything that you will regret later – mẹ đừng làm gì để sau này phải hối hận đó nhé”.
Kể cho tôi mà bà cười ngặt nghẽo, bảo nó dặn ta y như những gì ta dặn nó hồi 14 tuổi có bạn trai đầu tiên.
3.
Cái bỡ ngỡ xúc động dạt dào ban đầu đã qua, giờ đây hai ông bà luôn bên cạnh nhau. Khi thì ở nhà bà, lúc lại ở nhà ông cách chỗ bà chừng hai tiếng lái xe. Hôm tôi gặp cả hai ông bà, ông mở ví khoe tôi tấm hình một cô gái trẻ đẹp đứng bên cạnh chiếc xe hơi. Cô mặc bộ đồ tắm màu đen càng tôn lên dáng vẻ quyến rũ một cách lạ lùng. Ông nháy mắt hóm hỉnh, nàng của ta cách đây 60 năm đó, boiling hot nhá, đến giờ cũng còn… hot như thường. Bà cười ngặt nghẽo, ánh mắt đầy yêu thương nhìn ông, rồi nhìn qua tôi nói như phân trần, thấy chưa, ông ấy chỉ có giỏi nói “tầm bậy”. Rồi họ nắm tay nhau chầm chậm quay đi. Lưng ông hơi khòm, mái tóc trắng xóa chỉ còn lơ thơ vài sợi. Bà nhẹ nhàng e ấp đi sát bên cạnh, mái tóc cũng trắng như mây.
Hôm nọ gặp lại ông bà, tôi ngỏ lời, chuyện tình của ông bà đẹp quá, thật sự làm con xúc động, cho phép con viết lại để chia sẻ với bạn bè được không? Ông bà cười thật tươi, ôi vui chứ, con cứ viết đi. Nếu được con dịch ra tiếng Anh cho chúng ta đọc ké lại càng hay nữa.
Bà rút trong túi xách ra một phong thư bạc màu, đưa cho tôi hai tấm hình nhỏ xíu và cũ mèm, bà nói, con hãy cho các bạn con xem hai ta vào năm 1959 đi. Đó những tấm hình cuối cùng trước khi ta bị “đày” đi Anh. Ông đã giữ gìn thật cẩn thận suốt gần 60 năm qua đấy. Tôi cầm hai tấm hình đã bạc màu theo thời gian trên tay mà không khỏi bần thần. Ôi một thời tuổi trẻ yêu đương của họ… Một đôi trai gái xinh đẹp trẻ trung, say đắm và tình tứ. Và bây giờ trước mặt tôi cũng họ đó, hai cụ già, giọng nói đã bắt đầu thều thào, đi đứng bắt đầu run rẩy.
Cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, ông bảo bà, mình khoe quà Giáng sinh anh tặng đi. Để cô ấy viết nốt đoạn kết một cuộc tình. Bà quay sang nắm tay tôi, nói khẽ, Giáng sinh năm nay ông tặng ta chiếc nhẫn cưới. Tôi bỗng nghe cay cay nơi sống mũi, mắt nhòe đi. Ông cũng luống cuống cho tay vô túi tìm chiếc khăn tay, chùi nước mắt. Ông cũng khóc. Những giọt nước mắt hạnh phúc, dẫu muộn màng. Mà có lẽ cũng chính vì đã muộn màng nên lại càng hạnh phúc hơn. Hẳn là vậy.
Đúng một năm sau ngày ông bà gặp lại nhau, có một đám cưới nho nhỏ diễn ra trên một bờ biển rất vắng. Người chủ hôn lễ, thật đặc biệt, lại chính là con trai lớn của bà vốn là một quan tòa. Tôi cũng được mời dự, nhưng rất tiếc không thể thu xếp để đến. Không cần phải tưởng tượng gì nhiều, tôi cũng biết chắc chắn rằng đó là một lễ cưới hạnh phúc nhất, dịu dàng nhất. Trên thiệp cưới của ông bà, có hàng chữ như một kết đọng lại của mối tình:
Love you then, love you still
Always have, always will
Bên dưới là mấy chữ viết tắt rất nhỏ “MTY LTT”. Bà nheo mắt giải thích, “câu thần chú” của chúng tôi ngày xưa đó “More than yesterday, less than tomorrow” (Nhiều hơn hôm qua, ít hơn ngày mai).
*****