Buồn theo cách của Trúc Phương

Lúc đó tôi 16 tuổi. Thời buổi vất vả, mẹ tôi có sạp hàng vải ngoài chợ Vườn Chuối thì hằng ngày, quãng 12 giờ trưa bà phải về nhà soạn bữa cơm trưa cho chồng con rồi lại tất tả quay ra chợ, bán hàng tiếp. Trong khoảng thời gian 45 phút đó, hai bố con tôi thay phiên nhau ngồi trông hàng cho mẹ tôi.

Hôm ấy là phiên tôi trông sạp hàng. Mẹ trở ra, tôi ngạc nhiên khi thấy bố tôi đi theo. Ngạc nhiên nữa khi đi cùng ông bà là một người đàn ông lạ, tóc lâu ngày chưa cắt, tai đeo mắt kính dầy. Ông ấy ăn mặc xuềnh xoàng tuy cũng tươm tất, áo bỏ trong quần Tây cũ. Bố tôi giải thích: “Đây là chú Lộc”. Tôi không hề biết, ông ấy là nhạc sĩ Trúc Phương.

Nhiều năm sau đó, kể từ cái ngày ông Trúc Phương ghé nhà tôi, gặp mẹ tôi và muốn mua ít vải hoa may áo dài cho vợ ông, tôi gặp lại ông gần như hằng ngày thêm nữa. Những năm cuối 1980 đó, âm nhạc của ông đang làm mưa gió trên thị trường băng đĩa nhạc không chính thức, người ta đánh đĩa CD hàng loạt và gửi tầu hỏa ra ngoài Hà Nội, mua bán cả nghìn đĩa ngày ngày. Nhạc Trúc Phương, người miền Bắc sau 1975 chuộng nó như nghiện. Nói chung, ông bằng một dòng nhạc cũ rất đặc trưng, đã dẫn đầu cả một hàng ngũ những nhạc sĩ sáng tác cùng dòng với ông, như Thanh Sơn, Vinh Sử, Hoài Linh, Đài Phương Trang, Mặc Thế Nhân, Tú Nhi, cả Hoàng Trang và Anh Việt Thu. Ai cũng viết thạo cả, sướt mướt cả, duy mỗi Trúc Phương đứng đầu hàng.

Tôi gặp ông ngày ngày như thế là do tôi biết thiết kế mỹ thuật bìa CD cho các trùm băng đĩa thuộc khu vực Huỳnh Thúc Kháng – Tôn Thất Thiệp – Hồ Tùng Mậu – Pasteur thuở nào – Việc nhiều không kịp thở. Nên dù muốn hay không, tôi cũng phải chú ý đến các tác phẩm của ông. Ngẫm nghĩ tại sao vào lúc đó, nhạc Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn đã bị đánh bại tại thị trường luôn tò mò ở miền Bắc, và trong gần như tất cả các quán cà-phê nhạc. Tại sao, người Hà Nội mấy chục năm trước đã thuộc nhạc Trúc Phương còn hơn chính người Sài Gòn gốc. Nó giải thích lý do, từ đâu vào những năm 2000, xuất hiện cô ca sĩ Lệ Quyên chỉ đi theo dòng nhạc này, sau nhiều ngày tháng loay hoay.

Cố nhạc sĩ Trúc Phương, tên thật Nguyễn Thiên Lộc (1933-1995), sinh quán Trà Vinh. Ông là một nhạc sĩ đã tỏa sáng theo cách của một ngọn đèn bão, như cây bút Nguyễn Đăng Khoa đã nhận xét. Nhạc của Trúc Phương rực rỡ bằng những âm thanh bật ra từ những chỗ ngả lưng tối tăm nhất, ở những ngõ hẻm ít mét vuông nhiều cái “xuyệt” (Sur) ẩm thấp, ở đốm lửa tàn lụi cuối cùng của sự thiếu thốn – Xét cả về hạnh phúc lẫn vật chất. Mặc dù vậy, vẫn không thể không nhắc, vào giai đoạn đầu học hành và sáng tác âm nhạc dưới sự chỉ dẫn của nhạc sĩ Trịnh Hưng (tác giả các ca khúc Lối Về Xóm Nhỏ, Lúa Mùa Duyên Thắm), những bài trình làng sân khấu của Trúc Phương đều là những nhạc phẩm mang tiết tấu rộn ràng, tươi vui dành tặng cho miền Nam.

“Tôi (Nguyễn Đăng Khoa) muốn nhắc đến hai bài được xem là đầu tay của Trúc Phương, Tình Thương Mái Lá và Tình Thắm Duyên Quê. Trong đó, Tình Thắm Duyên Quê đã gây được nhiều vang vọng trong quần chúng số đông. Đến nỗi ngay mãi những năm 2020 này, đã 50 năm qua, tôi vẫn được nghe chúng vang lên trong những chương trình âm nhạc trên sóng truyền hình. Cũng phải thôi, một sắc ngọc quý thì tỏa sáng thật sớm mà không cần mài dũa quá lâu”.

Tình nồng thắm xuyên qua bao mái tranh/
Ngọt ngào hương thơm mái tóc xanh/
Những tình mặn mà là những tình đơn sơ/
Quê tôi vẫn đẹp đẹp mấy tình ngây thơ./
Chiều làng quê say sưa trong tiếng ca/
Người làng quê yêu bông lúa thiết tha/
Những mẹ già ngồi trông trẻ đùa xóm dưới/
Rưng rưng môi cười như tuổi còn đôi mươi…

“… Giai điệu mượt mà, mạch lạc không hề gò ép, gượng gạo, đầy tràn vị ngọt ngào của lúa trĩu đồng, hiển lộ rõ ràng chất tài hoa của người viết. Ca từ của Trúc Phương mang nhiều tính tả thực để trình bày một miền quê sống động. Và từ đấy, chúng ta thấy rõ ràng cách trình bày vấn đề của nhạc sĩ là khai triển ý theo đường thẳng, trực tiếp, không lòng vòng, không mất nhiều thao tác dẫn nhập”.

“Tôi yêu quê tôi, yêu bông lúa thiết tha/ yêu quê tôi nên tôi ca hát say sưa. Làm được điều này để thu hút người nghe nhạc là cực khó, vì ai cũng biết nói gợi ý, dùng ẩn ngữ để vòng vo vẫn là thói quen hơn nói thẳng. Khá nhiều nhạc sĩ khác cũng có dẫn dắt xa xôi rồi mới tiếp cận chủ đề. Điều đó cũng phù hợp với nhân sinh quan của người Á Đông ở những thập niên 1950-1960 trong giao tiếp”.

Cách trình bày trực tiếp này đã làm cho các bài hát của Trúc Phương xem ra bị khô cứng và mất đi nét đẹp của ngôn từ. Cụ thể, trong ca khúc vừa dẫn, hình ảnh Những mẹ già ngồi trông trẻ đùa xóm dưới/ Rưng rưng môi cười như tuổi còn đôi mươi có cách dùng chữ giản đơn tưởng nông cạn nhưng thật ra nhiều hàm nghĩa. Xét về mặt hình ảnh, đó là một phương pháp biểu lộ giàu tính thi ca, không ít thi sĩ phải mơ ước để viết được như Trúc Phương.

Trúc Phương học nhạc chưa lâu đã thành công sớm. Thời nào cũng vậy, có những nhạc sĩ sáng tác mãi mà tên tuổi vẫn lềnh bềnh, phải có quãng thời gian thẩm thấu vào công chúng để nuôi lớn bút danh. Thậm chí một số khác khởi đầu rất trầy trật và nhạt nhòa, sẽ còn gian nan gấp bội để được số đông công chúng biết đến. Trúc Phương thuộc phân nhóm khác – vừa làm đã xuất sắc ngay. Học ở lớp nhạc của nhạc sĩ Trịnh Hưng – tác giả của rất nhiều bài ca xu hướng tươi sáng, mênh mang, dào dạt không khí miền Nam – ít nhiều Trúc Phương đã có những bước đầu khởi đi cùng hướng với người thầy dạy mình.

Có thể kể ra một ca khúc khác, sáng sủa, ngợi ca thanh bình, khắc họa được giao tình của con người dung hòa với quê hương, được nhiều người yêu mến đến tận bây giờ: Quê em nắng vàng nhạt cô thôn/ Vài mây trắng dật dờ nơi cuối trời/ Bâng khuâng tiếng hò qua xóm vắng/ Khói lam buồn như muốn ngừng thời gian/ Một chiều anh mới đến/ bóng Dừa nghiêng gió ru thềm/ Tìm về đôi cánh mầu/ mắt em nhìn nói ngàn câu…” (Chiều Làng Em). Tuy nhiên, khi Trúc Phương đã vững vàng về bản lĩnh sáng tác, những bài hoan ca đã không xuất hiện nhiều nữa. Những ca khúc có xu hướng tươi sáng hoàn toàn không phải là dòng chủ lưu trong âm nhạc Trúc Phương. Điều đó cũng đúng cho xu hướng nghe nhạc của công chúng.

“Đến tận những năm 1970 – Nguyễn Đăng Khoa viết – nên ghi nhận trong thị trường nhạc Việt Nam, những ca khúc mang xu hướng kể về tình yêu tan vỡ, tự cám cảnh, thương thân, ve vuốt đau buồn luôn luôn có số người ủng hộ và nghe đi nghe lại nhiều hơn phân nhóm ca khúc tươi sáng. Hàng loạt những ca khúc có tông màu buồn được trình làng: Ai Cho Tôi Tình Yêu, Mưa Nửa Đêm, Con Đường Mang Tên Em, Buồn Trong Kỷ Niệm, Đêm Tâm Sự, Hai Chuyến Tàu Đêm, Nửa Đêm Ngoài Phố, Hai Lối Mộng… đưa tên tuổi Trúc Phương bay bổng. Về số lượng, những bài hát buồn của Trúc Phương xuất hiện gấp nhiều lần những bài hát vui. Về chất lượng, đối với cá nhân người viết, những ca khúc tươi vui của Trúc Phương chỉ để lại một số ấn tượng hữu hạn, trong khi nhạc buồn của ông thì để lại vô vàn rung cảm. Phải khẳng định ngay: Trúc Phương là một nhạc sĩ thuộc hẳn về phe cánh của nỗi buồn!”.

“Tất nhiên, cần hiểu tích cực chủ điểm này trong cách nhìn hướng vẻ đẹp chiến thắng của nghệ thuật, nó sẽ bay cao hơn để nhìn xuống nỗi buồn. Chưa bao giờ những nỗi tuyệt vọng lại xuất hiện trần trụi mà va chạm được đến tận cõi lòng của số đông như thế. Chưa ai tưởng tượng được, trong một mối tình, có một người cần nhiều đau khổ đến thế. Chưa bao giờ những van níu tình yêu lại được bày tỏ ràn rụa như thế. Ai cho tôi tình yêu/ Của ngày thơ, ngày mộng/ Tôi xin dâng vòng tay mở rộng/ Và đón người đi vào tim tôi/ Bằng môi trên bờ môi (Ai Cho Tôi Tình Yêu).

Chưa bao giờ cơn mưa lại rơi trên đô thị theo một điệu buồn mải miết, từ chối đối thoại, từ chối giao cảm như thế. Mưa lạnh ở đây là cơn mưa hoàn toàn tả thực – lạnh lẽo – tàn khốc. Sự cuốn hút không nằm ở những rung cảm cần suy nghĩ sâu. Tính nghệ thuật của ca khúc nằm ở mức độ tái hiện tâm tư chân thật đến mức hoàn hảo của người nhạc sĩ: Đêm chưa ngủ nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi/ gác nhỏ đèn le lói bóng dáng in trên tường loang/ Anh gối tay tôi để ôn chuyện xưa cũ/ gói trọn trong tuổi nhớ/ Tôi muốn hỏi/ có phải vì đời chưa trọn vòng tay/ có phải vì tâm tư giấu kín trong thư còn đây/ nên những khi mưa nửa đêm làm xao xuyến/ giấc ngủ chưa đến tìm… (Mưa Nửa Đêm)”.

Một bậc thầy quen khắc họa nỗi cô đơn, tuyệt vọng khác là Trịnh Công Sơn. Nói theo Phân tâm học, âm nhạc chủ đạo của cả hai nhạc sĩ đều vận động theo bản năng chống đỡ cái Chết đến trước. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn không ở lại với luồng vận động bi quan quá lâu. Trịnh Công Sơn bằng cách này, hay cách khác, đã bỏ lại đau đớn phía sau để hướng đến những cái kết mang tính chữa lành vết thương. Trong khi đó, Trúc Phương đã thật sự làm khác, ông là một người ở lại nơi miền đất đau khổ đó lâu dài nhất, cuối cùng nhất. Trúc Phương để âm nhạc tràn ra trên những giọt nước mắt lăn dài.

Trúc Phương dũng cảm đi cùng đau buồn. Trúc Phương tự ghi lại giây phút mình chết đuối trong bể khổ. Ngày buồn dài lê thê/ Có hôm chợt nghe gió lạnh đâu tìm về/ Làm rét mướt qua song len vào hồn/ Làm khô môi biết bao nhiêu lần rồi/ Đời còn nhiều bâng khuâng/ Có ai vì thương góp nhặt tâm tình này/ Gửi giúp đến cố nhân mua nụ cười/ Và xin ghi kỷ niệm một đêm thôi… (Nửa Đêm Ngoài Phố).

Theo những tài liệu cũ, sở dĩ Trúc Phương mang nỗi buồn ngoài phố cô quạnh đến tận cùng như vậy là bởi ông từng có một mối tình bị từ chối. Ông vừa làm thêm vừa được ở trọ thuở cơ hàn trong nhà một người chủ, rồi ông bị đuổi khỏi nhà vì yêu đương con gái ông ta. Có lẽ thế, mà tâm sự ngoài phố – nửa đêm lại hoàn toàn là chuyện có thực trong những ngày lang thang ăn bờ, ngủ bụi của người trai nghệ sĩ. Tuy nhiên, nếu chỉ nói về tác phẩm Trúc Phương với xu hướng âm nhạc quen vận động về nỗi tuyệt vọng, sẽ chưa đủ lấy nó làm lý do giải thích nguyên nhân đưa âm nhạc ông trở nên đặc biệt và xác lập được bản sắc riêng. “Theo cá nhân người viết (NĐK), điều đặc biệt trong ca khúc của Trúc Phương nằm ở đối tượng chính của ca khúc: Tâm trạng buồn. Trước tiên, nhân vật mở lòng cho nỗi buồn tràn vào, đầy ngập. Sau đó, nhân vật không để nỗi buồn bừa bộn mà phải làm sao cho nó có một nhan sắc khó quên nhất.

Nói cách khác, theo cá nhân người viết, đặc điểm những ca khúc của Trúc Phương chính là việc ông đã phục sức cho nỗi buồn của mình thật tỉ mỉ và rực rỡ. Trở lại chuyện hai chúng mình/ Khi em với anh vừa biết đam mê tình yêu tràn trề/ Đường mòn đêm vắng bước chân em nhớ tên./ Rồi thời gian qua lối này/ Khi tay trắng tay, buồn vác lên vai hành trang đường dài/ Vì đời nên giả mắt giai nhân cho đời/ Nghe buốt giá lúc nửa đêm nhớ đêm/ Lửa ngun ngút lúc gọi yêu về tim/ Con đường tình sử nằm đây/ Đèn khuya mắt đỏ còn đầy dấu xưa… (Con Đường Mang Tên Em) Trong ca khúc vừa dẫn, vẻ đẹp nằm đầu tiên là ở ca từ (Mắt giai nhân, Con đường tình sử, Đèn khuya mắt đỏ đều là những sáng tạo đẹp về ngôn ngữ). Giai điệu đồng hành lại ăn khớp bánh răng từng li từng tí với phần lời hát, không có cưỡng dấu, không có ép vần. Tổng thể bài hát vượt lên khỏi vẻ ảo não bình thường để lấp lánh những cái đẹp nằm giữa những nỗi buồn. Nghĩa là người nghệ sĩ vừa hát vì nỗi buồn, vừa mượn nỗi buồn để bay lên bằng đôi cánh của nghệ thuật. Sự tiếp cận trực tiếp của Trúc Phương với nỗi buồn có những thành công đặc biệt, nhờ cách phục sức rất tươm tất của ông đối với nỗi buồn”.

Ở dòng nhạc bolero, số nhạc sĩ không thiếu, số ca khúc càng thừa mứa, nhưng nhận xét rằng Trúc Phương là “ông hoàng” trong lĩnh vực lại giành được nhiều ý kiến đồng thuận. Dĩ nhiên, mọi xưng tụng đều chỉ có một độ chính xác tương đối, nhưng qua đó, cũng phần nào cho thấy những thành công vượt trội của Trúc Phương trong dòng nhạc buồn. Trúc Phương viết như thế giới chỉ có mình ông hiểu rõ được sự tuyệt vọng, sự khốn cùng. Thậm chí, còn có vẻ như Trúc Phương lại kiêu hãnh với những nếm trải độc quyền của mình về đau khổ. “Điều đặc biệt ở Trúc Phương mà không ai có, chính là ông biết cách tỏa sáng như một ngọn đèn bão, trong phong ba chưa bao giờ lụi tắt” (NDK)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: