Ca khúc “Tình Ca” ra đời trong hoàn cảnh nào?

(Phamduy.com)

Phải nói rằng, nếu không phải là giọng hát của danh ca Thái Thanh thì khó có ai khác có thể làm thăng hoa được hết những rung cảm sâu lắng, cuộn trào như suối nguồn của ca từ, của giai điệu mà Phạm Duy gửi gắm trong âm nhạc. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến nhạc phẩm “Tình Ca”. Thái Thanh đã thể hiện vô cùng thành công ca khúc này. Truyền tải được hết tâm tư, nguyện vọng lớn lao mà Phạm Duy gửi gắm trong đó.

Ca khúc “Tình Ca” được nhạc sĩ Phạm Duy chắp bút vào năm 1953. Ca khúc thể hiện mơ ước kết nối tình cảm con dân nước Việt về một mối.
Về hoàn cảnh sáng tác, theo Wikipedia, Phạm Duy từng có thời gian hoạt động trên chiến khu Việt Bắc. Nhưng vì không chịu được cuộc sống gò bó mất tự do tư tưởng ở chiến khu nên cùng vợ con rời đi. Ông đã viết “Tình Ca” để thể hiện lòng yêu nước của mình, đồng thời kêu gọi tinh thần ái quốc, đoàn kết ba miền.

Trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy đã trải lòng về ca khúc này như sau:

“Sau khi tung ra ‘Tình Hoài Hương’, tôi có ngay bài ‘Tình Ca’ xưng tụng tiếng nói, cảnh vật và con người Việt Nam. Mùa xuân năm đó, trong gian phòng bốn thước vuông ở căn nhà gỗ trong ngõ Phan Thanh Giản, tôi vừa bế con (con trai Phạm Duy Minh vừa ra đời) tôi vừa hát: ‘Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi/ Mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi tiếng ru muôn đời…’.

Bài ‘Tình ca’ này không còn thẳng băng ruột ngựa như những bài ca kháng chiến trước đây. Bây giờ, nó muốn gắn bó tất cả người dân trong nước bằng một tình cảm thống nhất: Tôi yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi, yêu người nước tôi.

Thật là may mắn cho tôi là nói lên được phần nào bản sắc quốc gia qua bản ‘Tình Ca’ này”.

Cũng trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy giải thích kỹ càng hơn: Trong quá khứ, các bậc tiền bối chưa kịp làm công việc đó vì đã có lúc chúng ta có một cuộc nội chiến khá là dài. Đó là 200 năm phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Trong khoảng từ những năm 1600 đến 1800, người trong nước khó có được sự đồng nhất quốc gia. Ở Đàng Ngoài, sĩ phu Bắc Hà không có thời gian và phương tiện để tìm hiểu bờ cõi giang sơn mỗi ngày một thêm bành trướng với cuộc Nam tiến. Còn ở Đàng Trong, các sĩ phu lại bận bịu với những lo toan kiến thiết địa phương. Ở miền nào kẻ sĩ phải phục vụ vua quan của miền đó.

Tuy là cùng một nước nhưng hai bộ máy chính trị và văn hóa. Vì thế, chưa hề có tác phẩm nào nói lên được một ý thức quốc gia toàn diện. Cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất giang sơn, đất nước được mở rộng hơn về phía Nam thì trong khoảng 50 năm ngắn ngủi, các nhà nho của triều Nguyễn chưa kịp đưa ra một hình ảnh quốc gia trọn vẹn nhất thể, nhất tề, nhất trí thì người Pháp tràn vào xâm lăng nước Việt.

Trong 80 năm nô lệ sau đó, bản sắc quốc gia trong văn học nghệ thuật Việt Nam chưa kịp hình thành thì bị xé nát bởi chính sách chia để trị của Pháp. Chúng cố tình đề cao sự khác biệt giữa ba miền và giữa những người dân trong nước. Điều này khiến ta mất đi ý niệm quốc gia đồng nhất. Khi có những phong trào phục quốc như Cần Vương, Văn Thân… ý thức quốc gia vẫn còn mang ý niệm bảo hoàng, phong kiến.

“Định mệnh mệnh khiến tôi, một cá nhân tầm thường, qua một bản ‘Tình Ca’ ngắn ngủi, đưa ra khái niệm con người Việt Nam với địa dư, lịch sử và tiếng nói chung của một dân tộc đã từng chia sẻ với nhau trên vài ngàn năm lẻ. Tôi là được việc này vì tôi có may mắn được đi ngang đi dọc nhiều lần trên bản đồ hình chữ S, gặp gỡ đủ mọi hạng người trong xã hội, nhất là được sống với những nổi trôi của lịch sử tử thời thơ ấu qua thời vào đời tới thời cách mạng kháng chiến.

Bài ‘Tình Ca’ được mọi người yêu thích ngay. Nó nói tới quê hương đất nước nhưng cũng nói luôn tới tiếng nói và con người nữa. Là bài hát tình ca quê hương nhưng nó còn là bài hát tình tự dân tộc”, nhạc sĩ Phạm Duy viết trong hồi ký.

“Tôi yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi và yêu người nước tôi”

“Tình Ca” của Phạm Duy mang đậm âm hưởng dân ca Bắc Bộ. Ca khúc được trình diễn lần đầu với giọng ca Anh Ngọc và sau đó gắn liền với tiếng hát Thái Thanh. Năm 2006, sau khi âm nhạc của Phạm Duy được phổ biến lại ở Việt Nam, mười nốt đầu của bài hát đã được hãng truyền thông Sơn Ca mua về làm nhạc hiệu.

Trong bản “Tình Ca” của mình, nhạc sĩ Phạm Duy chủ ý phân chia thành 3 phần: “Tôi yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi và yêu người nước tôi”. Bởi đó chính là ba thứ bản sắc cốt lõi của dân tộc Việt Nam, không trùng lặp với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào.
Lời 1 – “Tôi yêu tiếng nước tôi”

Với bất cứ người Việt Nam nào, tình yêu quê hương chắc chắn được khơi nguồn từ những điều rất bình dị. Đó là tình yêu được hình thành từ trong vô thức, trong sâu thẳm trái tim mỗi người ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời. Tình yêu quê hương thấm dần trong những lời ru đầu đời của mẹ:

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời”

Những thanh âm ngọt ngào, dịu dàng, lúc trầm lúc bổng trong lời ru của mẹ đã đưa đứa trẻ vào giấc ngủ an lành, hạnh phúc. Những lời ru ấy đi khi khó hiểu, mơ hồ, xa rời với tâm hồn non nớt của trẻ thơ nhưng với bất kỳ đứa trẻ nào cũng muốn được nghe, được ru để được êm êm chìm trôi trong miền tưởng tượng, trong những giấc mơ bay bổng ngây thơ. Và những tiếng ru ấy dần dần hòa vào dòng lịch sử, tiếng gọi của non sông:

“Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi”

Tình yêu quê hương đất nước sâu sắc hơn bao giờ hết với tình yêu tiếng nói, câu chữ. Đó là những trang sử dài suốt bốn ngàn năm, là những áng văn “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”, là tiếng mẹ cha ban tặng từ thuở nằm nôi. Tất cả những tiếng nói đó vang vọng trở về từ quá khứ, hòa quyện với tiếng nói của hiện tại, cùng hướng tới những âm thanh tơi đẹp trong tương lai.

“Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai”

Với người Việt, ca dao dân ca là mảng văn hóa lớn chứa đựng cả tâm hồn, tâm tính, truyền thống… của dân tộc. Những bài ca dao, tục ngữ, điệu hò, câu hát, những bài đồng dao, những câu chuyện dân gian… Tất cả đều là những thứ “tiếng ngang trời”. Mỗi người mỗi câu, thêm thắt, ca tụng, truyền cả rồi dần dần thành điệu, thành tài sản chung của dân tộc.

Với âm nhạc của mình, Phạm Duy cũng không quên đưa những âm điệu, hình ảnh của các thể thơ dân gian, khiến cho nhạc phẩm trở nên gần gũi, chậm chất tự sự, gắn kết tâm hồn người Việt:

“Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói thật thà có duyên…”

Thật khó có nhạc phẩm nào viết về tình yêu quê hương mà cái chữ “yêu” lại được thốt lên lên một cách tự nhiên, trìu mến và xuất hiện dày đặc như trong “Tình Ca” của Phạm Duy.

Với mỗi dân tộc, giữ được tiếng nói, giữ được chữ viết là giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Vậy nên, thứ duy nhất có thể phản ánh chân thực nhất nên văn hóa của dân tộc là sợi dây kết nối và lưu giữ truyền thống văn hóa qua nhiều thế hệ. Và có lẽ đây cũng là lý do mà Phạm Duy chọn “tiếng nói” của quê hương mình trở thành chủ thể đầu tiên để xưng tụng.

Nhạc sĩ Phạm Duy yêu chọn vẹn mảnh đất hình chữ S. Ông đưa hình ảnh đồng ruộng, núi đồi, sông ngòi vào từng câu hát của của mình, tạo thành một dài kết nối trùng điệp vươn dài từ Bắc chí Nam, từ Nam ra Bắc, từ núi xuống đồng bằng, từ ruộng đồng ra biển lớn.

Trong khúc nhạc hòa ca của Phạm Duy, thấp thoáng tình yêu và tâm hồn Việt trong mỗi dòng sông, dãy núi, dải ruộng đồng và cả khát vọng kết nối, thấu hiểu yêu thương từ mọi miền Bắc Trung Nam.

Những năm 1940, Phạm Duy trong vai người du ca có cơ hội đi khắp nơi từ miền quê nghèo cho đến thành thị phồn hoa, từ Bắc vào miền Trung, đến miền Nam. Nhờ những chuyến du ca đó mà ông có cơ hội gặp gỡ con người Việt Nam, trải nghiệm và thấu hiểu tình yêu quê hương đất nước của người Việt. Dù ở miền ngược hay miền xuôi, dù ở trong Nam hay ngoài Bắc, chung tụ lại là sự yêu thương, tình cảm sắc son với nước nhà.

Chính những trải nghiệm, khát khao cháy bỏng đó, ông viết “Tình Ca” như một lời hiệu triệu, hô hào đầy chất tự sự, tâm tư của một người con mang trong mình tình yêu trinh nguyên, không bao giờ đổi dời với non sông đất nước.

Nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa hình ảnh tiêu biểu của nền văn minh lúa nước Việt Nam, đó là những người nông phu “mình đồng da sắt”, đội sương nắng bên bờ ruộng, suốt ngàn năm đứng trên đất nghèo để gìn giữ, nuôi lớn đất nước từng ngày dẫu phải kinh qua bao đau thương, khói lửa.

Cái cách Phạm Duy kể về lịch sử, kể về giống nòi, quê cha đất tổ vô cùng đặc biệt. Đó không phải là những câu chuyện hào hùng, rền vang chiến tính mà là sự xót xa, tha thiết, đầy yêu thương. Đó là tình cảm thiêng liêng, sự biết ơn vô ngần dành cho thế hệ đi trước. Biết ơn từ những người nông phu tảo tần cho đến các triều đại đã dựng nước, giữ nước và những sau này là những người anh hùng đã ngã xuống vì độc lập dân tộc.

“Vì yêu, yêu nước, yêu nòi
Ngày Xuân tôi hát nên bài tình ca
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
Lòng tôi đã nở như là đóa hoa…”.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: