Trang 1 một số báo Sài Gòn Mới mà một bạn đọc tại Mỹ gửi cho ông Hoàng Hải Thủy (TAK)

Tôi đọc lại một bài cũ của nhà văn Hoàng Hải Thủy, thấy nỗi nhớ Sài Gòn thấm đẫm trong đó nên viết bài này. Những đoạn nào của ông, tôi đều ghi chú. Mong ông bình yên nơi cõi mới.

… Trước năm 1956, con đường ấy tên Colonel Grimauld, là tên một sĩ quan Pháp từng tham dự một trận chiến quyết định khi Pháp xâm lược Nam Kỳ từ gần 200 năm trước. Từ 1956 đến 1975, đường tên là Phạm Ngũ Lão.

Ðường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, khởi đầu từ ngã ba có rạp xi-nê Khải Hoàn, trụ sở Hội Dục Anh, cũng là nơi gặp nhau của 3 ngả đường Nguyễn Trãi, Cống Quỳnh, và chính Phạm Ngũ Lão. Ðường có chợ Thái Bình, rạp xi-nê Thanh Bình về sau sẽ thành rạp Vistarama Quốc Tế, tòa soạn nguyệt san Văn, nhà in Nguyễn Ðình Vượng từng in quyển Đường Xa Chi Mấy (1960) của ông già tôi, và có xóm Sáu Lèo. Một đoạn đường, một bên là dãy tường nhà ga Hỏa xa Sài Gòn, một bên thì liền một dẫy 5-7 nhà in, tòa soạn nhật báo, tuần báo. Ở đoạn đường này trong những năm 1960-70 có nhà in Thư Lâm Ấn Quán của người con rể ông Ðông Hồ, tòa soạn tạp chí Phổ Thông của ông Nguyễn Vỹ mà bố tôi từng có nhiều tháng ngày làm việc ở đó, có Thi đoàn Bạch Nga của chính ông Vỹ một thời đặt trong nhà in Thư Lâm. Rồi tòa soạn kiêm nhà in tuần báo Ðiện Ảnh của ông Mai Châu, tòa soạn kiêm nhà in tuần báo Kịch Ảnh, nhật báo Tiếng Vang của ông Quốc Phong, tòa soạn kiêm nhà in Thế Giới của ông Nguyễn Văn Hợi. Có lẽ từ 1960-1975, đường Phạm Ngũ Lão đã là nơi tập trung nhiều tòa báo và nhà in báo nhất trong lịch sử báo chí Sài Gòn.

Ông Hoàng Hải Thủy viết: “Tòa soạn – nhà in nhật báo Sài Gòn Mới ở số nhà 39 cuối đường, đoạn này nằm lửng lơ con cá vàng giữa 3 đường Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Ðạo và Hàm Nghi. Dãy nhà một tầng lầu, thì tòa báo Sài Gòn Mới gồm 3 căn, 3 căn tầng trệt là nhà in, 3 căn tầng lầu là tòa soạn và cũng là nơi cư ngụ của ông bà Bút Trà. Tuy có vi-la ở đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận – Sau 1963 đổi tên là đường Thích Quảng Ðức – ông bà Bút Trà vẫn sống ở tòa báo”.

“Tại sao hôm nay, một buổi chiều Thu, sống ở xứ người xa Sài Gòn, xa đường Phạm Ngũ Lão không phải là một mà những hai biển lớn, tôi bỗng dưng lại thấy hiển hiện bầu trời Sài Gòn chuyển mưa xanh xám như buổi chiều ấy trong những năm 1960 – Những năm tôi đang thời son trẻ, những năm phong độ nhất của đời tôi. Năm mươi năm xưa rồi còn gì!” – Ông Thủy luyến tiếc.

Ông bà Bút Trà, ông Nguyễn Đức Nhuận và bà Tô Thị Thân, ảnh chụp năm 1950 (TAK)

“Sáng nay, buổi sáng cuối năm ở rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Ðốn, xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đi một đường cảm khái nhớ Sài Gòn xưa, nhớ tòa báo cũ, cũng vì mới đây trong một bài viết của chính tôi, tôi đã đăng bức ảnh chụp trang nhất tờ nhật báo Sài Gòn Mới. Từ ngày sang Hoa Kỳ, tôi vẫn để nhiều thì giờ tìm trên Internet những tài liệu về tờ nhật báo Sài Gòn Mới năm xưa, nhưng tôi thất vọng. Có thể nằm ở đâu đó trong kho Internet khổng lồ thế giới có những tài liệu, hình ảnh về những tờ nhật báo của Sài Gòn trước năm 1975, những tờ hàng đầu như Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tia Sáng, Trắng Ðen, Bút Thép, Ðại Dân Tộc. Song, tôi không tìm thấy gì cả. Ngay cả một tấm ảnh của bà Bút Trà, bà chủ nhiệm nhật báo Sài Gòn Mới, tôi cũng không tìm thấy. Rõ hơn: Ôi không có ảnh bà Bút Trà”.

“Ðã vài lần, tôi ngỏ lời mong quí vị người đọc bốn phương, vị nào có tài liệu về nhật báo Sài Gòn Mới, xin gửi cho tôi. Tôi nhận được bản chụp trang nhất nhật báo Sài Gòn Mới – Tôi ghi ảnh này số

1. Sau khi đăng ảnh lên, xem kỹ lại tôi thấy có sự vô lý: Tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ trên mặt trận Cao Miên ngày 19 Tháng Năm 1970, nhật báo Sài Gòn Mới bị chính phủ Nguyễn Khánh đóng cửa vào tháng Tư 1964, làm sao báo Sài Gòn Mới chết năm 1964 đăng được tin một vị tướng quân đội VNCH tử nạn năm 1970? Một người nào đó đã làm giả tấm ảnh nhật báo Sài Gòn Mới số 1 đăng cùng bài đó mà vì vô ý tôi đã không thấy ngay. Khi tôi nêu thắc mắc đó lên, Tháng Mười Một 2010, bạn T.V. ở thành phố Milipitas, Cali, gửi cho tôi tấm ảnh nhật báo Sài Gòn Mới số 2”.

Và ông Thủy cũng nhận được thư của một bạn đọc tên là Phạm Lộc, đề ngày 19 Tháng Tám 2010. Xin trích lại: “Năm 1982 đi cải tạo về, một hôm tôi đến đứng trước nhà in Nguyễn Ðức, số 39 đường Phạm Ngũ Lão. Tôi ngậm ngùi khi thấy nét chữ Nhà In Nguyễn Ðức đã phai mờ nhưng còn đọc được. Tôi nhìn cái cầu thang dẫn lên tầng trên, nơi có tòa soạn báo Sài Gòn Mới. Tôi nhớ lại chỗ này, trước 1975 có nhà sách Lê Phan và nhà hàng Thanh Bạch. Má tôi là giáo viên dạy ở Trường Bình Dân Học Hội, số 266 đường Tôn Ðản của BÀ BÚT TRÀ. Tôi phải viết hoa mấy chữ BÀ BÚT TRÀ vì nhờ mẹ tôi có việc làm ở trường của bà, nên mới có tiền nuôi tôi ăn học, tôi có bằng Tú Tài, vào lính lên đến đại úy. Tôi vẫn cảm ơn BÀ BÚT TRÀ và cầu nguyện, mong Bà được yên vui trong cõi vĩnh hằng”.

Bức thư chân tình đó đã thúc đẩy ông Thủy viết thêm một bài khác, lại cũng xin trích: “Lúc 11 giờ trưa ngày 11 Tháng Mười Một 1961, khi những ông sĩ quan làm đảo chính Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Ðông, Phạm Văn Liễu đã lên phi cơ bay sang Nam Vang, một tuyên cáo ủng hộ phe đảo chính được đưa tới tòa báo Sài Gòn Mới. Tuyên cáo do một số nhân sĩ ký tên, trong số có các ông Nguyễn Tường Tam, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên, Phan Quang Ðán. Báo Sài Gòn Mới có đăng tuyên cáo này hay không? Người quyết định đăng hay không là ông Bút Trà. Ông nói nhà báo không ủng hộ phe nào cả, nhưng vẫn có tin là nhà báo đăng, và nhật báo Sài Gòn Mới đã đăng thật”.

“… Hình như cả làng báo Sài Gòn hôm ấy chỉ có báo Sài Gòn Mới đăng tuyên cáo ủng hộ phe quân nhân làm đảo chính. Những người ký tên trong tuyên cáo ủng hộ phe đảo chính, không phải nhật báo Sài Gòn Mới ủng hộ, nhưng vì đăng nó mà báo Sài Gòn Mới “có tội” với chính phủ. Báo không bị đóng cửa nhưng bị một phen xính vính”.

“Sau khi ông Diệm bị bắn, buổi trưa ngày hôm sau, tượng đồng Hai Bà Trưng ở công trường Mê Linh bị đám đông kéo xuống. Tượng Hai Bà bị cưa cổ, đầu tượng bị cho vào xe xích lô chạy diễu trên đường Tự Do, cùng lúc ấy tòa báo Sài Gòn Mới bị một nhóm người kéo đến đập phá. Khi bọn ấy kéo vào, chị giúp việc của bà Bút Trà đưa cho bà cái nón lá, bà đội nón theo chị đi ra khỏi tòa soạn. Những người đi phá phách chắc cũng không hãnh diện chi lắm với việc làm của họ, nên họ chỉ đập qua loa rồi rút êm. Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ không đóng cửa nhật báo Sài Gòn Mới. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ hồi ấy không đóng cửa một nhật báo nào của Sài Gòn, chỉ có tờ báo Cách Mạng Quốc Gia tự đóng cửa”.

Bốn tháng sau, khoảng tháng Ba hay Tháng Tư 1964, Nguyễn Khánh làm cuộc binh biến gọi là “chỉnh lý”. Trong cuộc họp báo thứ nhất của nhóm chỉnh lý, ủy viên của nhóm là Ðỗ Mậu – Hình như lúc đó còn là đại tá – đọc lệnh đóng cửa 3 nhật báo Sàigòn Mới, Ngôn Luận, Ðồng Nai vì “tội cấu kết với độc tài nhà Ngô”. Nhật báo Sài Gòn Mới, nhật báo Ngôn Luận, 2 tờ báo chính của tôi bị đóng cửa, thời phong độ của tôi chấm dứt, cuộc đời tôi bắt đầu đi xuống…”.

Câu chuyện này, trong hồi ức của ông Hoàng Hải Thủy, làm tôi nhớ đến truyện Người thợ nề Vương Thừa Phúc của tác giả Hàn Dũ, theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê: “Họ Vương, tên Thừa Phúc, đời đời làm nghề nông ở đất Tràng An, hạt Kinh Triệu. Hồi loạn Thiên Bảo, làm lính mộ, cầm cung tên mười ba năm, có công lao, có thể được thăng quan, nhưng bỏ mà về nhà; vườn ruộng mất hết, làm nghề thợ nề để nuôi thân, đã trên ba chục năm. Ở trọ một nhà tại chợ, mà trả tiền nhà, tiền cơm đều phải chăng. Tùy tiền nhà, tiền cơm đắt hay rẻ mà tăng hay hạ tiền công thợ nề, có dư thì cho những kẻ nghèo đói, phế tật. Người thợ nề ấy nói: “Nghề thợ nề dễ làm, tuy khó nhọc mà không có gì phải thẹn, lòng tôi được yên. Dùng sức thì dễ, dùng tâm thì khó mà cần có trí. Kẻ dùng sức để người ta sai khiến, kẻ dùng tâm sai khiến người, cũng là đáng vậy. Tôi chọn làm cái nghề dễ làm mà không xấu hổ. Tôi cầm bay vào các nhà phú quí đã nhiều năm rồi. Có nhà tôi tới một lần, lần sau đi qua thì đã thành đất hoang, có nhà tôi tới hai, ba lần, lần sau đi qua thấy không còn nữa. Hỏi người láng giềng, có người nói: “Ôi, chủ nhà bị tội, chết rồi!”. Có nơi đáp: “Chết rồi. Con cháu không giữ được gia sản!”. Có người lại trả lời: “Chết rồi. Gia sản bị tịch thu!”. Tôi lấy đó mà ngẫm thì chẳng phải ăn mà làm biếng nên bị vạ trời đấy ư? Chẳng phải là gắng dùng trí mà không đủ sức, không biết xét tài năng có xứng không mà mạo hiểm làm đấy ư? Chẳng phải là làm nhiều điều đáng xấu hổ, biết là không nên mà cứ làm đấy ư? Hay là phú quí khó giữ, vì công lao thì ít mà hưởng thụ lại quá hậu?

Hay là thịnh suy có thời, hết thịnh đến suy và không thể thịnh hoài được? Nghĩ vậy tôi sợ lắm, cho nên tôi chọn cái nghề vừa sức tôi mà làm. Thích giàu sang mà ghét nghèo hèn, tôi nào có khác chi người? Kẻ công lao nhiều thì cung phụng cho mình cũng nhiều; vợ con đều trông vào ta mà sống. Sức tôi yếu mà công tôi nhỏ, tôi không có vợ con cũng phải. Hạng người lao lực mà có vợ con thì thêm lao tâm. Một thân mà gánh vác hai việc, bậc Thánh cũng không làm được”. Ông Hàn Dũ thoạt nghe chính chuyện đó thì còn nghi hoặc, sau ngẫm kỹ thì thấy người đó là bậc hiền, nhưng vẫn có chỗ đáng chê là vị mình quá nhiều, vị người thì quá ít. Người đó cho việc có gia đình là lao tâm, không chịu nhọc tâm để nuôi vợ con, thì có khi nào chịu lao tâm vì người khác không? Tuy nhiên, so với bọn người đời chỉ lo đắc thủ, mong thỏa mãn dục vọng một đời, tham tà mà quên đạo đến nỗi táng thân, người thợ nề đó còn hơn xa. Hàn Dũ lại nghĩ lời người đó có thể răn người khác được nên ông chép lại truyện này, học giả Nguyễn Hiến Lê đọc thấy thấm ý nên dịch lại.

Câu chuyện người thợ nề đó, tuy nhỏ nhưng làm tôi nghĩ mãi. Tôi phải đọc thêm những gì mà ông Hoàng Hải Thủy viết về sau, khi chính ông cũng chiêm nghiệm chuyện đó, mà ngẫm sang chuyện tờ Sài Gòn Mới: “Từ năm 1960, khi tôi – Công Tử Hà Đông (1) – bắt đầu ghi nhận được chuyện đời, tôi thấy ở nước mình không có nhà nào giàu sang được quá 2 đời. Hai đời thôi, không lâu đến 3 đời, nước mình không có chuyện nhà quyền quí truyền đến 5 đời như những nhà công hầu quí tộc thời Ðông Chu bên Tàu. Ở nước mình như nhà họ Hoàng, ông bố Hoàng Cao Khải, ông con Hoàng Trọng Phu, hai đời Tổng đốc đại thần, nhưng đời Tổng đốc Hoàng Trọng Phu cũng không được trọn vẹn. Chính quyền Nam Triều và Nhà nước Bảo hộ Ðại Pháp tiêu tán thoòng, quay cu lơ, ngủm cù đèo, “phe lơ mò” (2) năm 1945 khi Tổng đốc Hoàng Trọng Phu còn sống. Năm 1942 ông ấy về hưu, nhường chức đó cho ông Vi Văn Ðịnh, rồi ông Hồ Đắc Ðiềm. Tổng đốc Hoàng Trọng Phu qua đời không kèn, không trống ở ấp Thái Hà năm 1946”.

“… Sau 1945, những nhà giàu ở nước tôi, giàu thôi, không nói sang, không lâu được một đời. Như ông bà Bút Trà chủ báo Sài Gòn Mới. Tờ nhật báo ra đời từ những năm 1925 – 1926, sau năm 1945 đổi tên là báo Sài Gòn Mới. Báo sống được nhưng không huy hoàng, không phải là báo bán chạy, mãi đến năm 1957 nhờ sáng kiến tặng phụ bản bản đồ Việt Nam, bản đồ thế giới rồi phụ bản mầu đủ thứ chim cò, ngao sò ốc hến của anh con thứ năm là Năm Thành, báo mới tăng vọt số bán ra. Anh con thứ sáu là Sáu Khiết xuất bản tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai. Tiền đổ vào nhà Sài Gòn Mới như nước. Bà Bút Trà xây và làm chủ rạp xi-nê Kim Châu trên đường Nguyễn Văn Sâm”.

“Giang sơn Sài Gòn Mới chỉ thịnh vượng được có 7-8 năm, từ 1957 đến đầu 1964. Rồi tan. Rồi nát. Rồi không còn một dấu vết. Sau ngày tờ báo bị bức tử, bà Bút Trà về sống với nhà bảo sinh có từ trước của bà ở gần trường tiểu học Bàn Cờ đường Phan Đình Phùng. Ông bà Bút Trà không làm việc gì thất nghĩa, và ông bà, những người con của ông bà không lười biếng, không phải là hạng người chỉ ăn mà không làm, không phải là những người làm mà không lượng sức, cũng không làm những trò đốt tiền và không cả uống rượu, nhưng cuộc giàu có của họ vẫn không được bao năm. Ôi, phải chăng như lời ông thợ nề Vương Thừa Phúc nói: “Thịnh suy có thời, không thể thịnh mãi”?- Tôi chỉ ngậm ngùi vì chuyện ở đời, thời gian thịnh của những người sống cùng thời với tôi sao mà ngắn quá!”.

Những ngày như lá, tháng như mây (3). Thấm thoắt mà đã 50 mùa lá rụng đi qua đời nhà văn của chúng ta kể từ ngày ông ấy bước chân ra khỏi tòa soạn nhật báo Sài Gòn Mới lần cuối cùng trong đời mình. Ông bỗng nhớ về một buổi chiều, chính mình đứng trên hành lang lầu một toà soạn nhật báo Sài Gòn Mới, nhìn trời Sài Gòn chiều chuyển mưa xanh xám phía chợ Bến Thành. Rồi ông vào một ngày Chủ Nhật 1968 rỗi rãi, tới chơi nhà tôi ở số 502/411 Phan Đình Phùng mà khề khà chút rượu với bố tôi, để thằng nhóc như tôi lúc đó ngồi sau bếp nghe lỏm được. Ông than vãn là trong trí nhớ của ông, 6 năm rồi mà vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên lãng tử của nhật báo Sài Gòn Mới năm xưa (1962). Chàng phóng viên đó diện đúng mốt: Sơ-mi 2 túi ngực, 2 cây bút Parker cắm ở túi áo, một mực đen, một mực đỏ. Đồng hồ tay thì mua ở Bangkok, quần sans-pli, giầy mocassin từ tiệm Trinh’s Shoes trên phố Tự Do có giá 500 đồng một đôi. Trong túi áo ngực có bao thuốc Lucky Strike hay bao Philip Morris Vàng, quẹt máy Dupont màu trắng thì dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần. Chàng phóng viên ấy xem ra cứ 27 tuổi mãi!

——-
(1) Một trong nhiều bút danh của ông Hoàng Hải Thủy
(2) Faire Le Mort: Giả chết
(3) Thơ Thanh Nam, nhà văn, phu quân của nữ văn sĩ Túy Hồng

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: