Giữa Tháng Tư dương lịch, Việt Nam nắng, nóng như đổ lửa một mình tôi có dịp về Việt Nam rong chơi.
Sau khi dành tuần lễ đầu tiên viếng mộ phần của bố mẹ và vài ba người bạn thân thiết xa xưa đã nằm xuống trong chiến tranh. Tôi khoác ba lô đi du lịch bụi như sở thích của mình trong những chuyến về Việt Nam trước.
Với chuyến xe đò chạy ban đêm,sáng sớm hôm sau tôi đến thành phố Đà Lạt với khá nhiều mệt mỏi. Việc làm đầu tiên là đến khách sạn, tắm rửa xong ra quán cơm ăn qua loa bữa điểm tâm rồi lại về khách sạn ngủ cho đến chiều bù lại cho một đêm chập chờn trên xe. Rồi những ngày tiếp theo, ban ngày rong chơi đây đó trong thành phố hay nhờ những chuyến xe đò nội tỉnh đến những vùng lân cận thăm viếng vài ba cơ sở thương mại của địa phương. Chiều tối trở lại thành phố, sau bữa cơm tối rồi tìm đến những quán cà phê hay phòng trà trong thị xã ngồi nhâm nhi ly nước để hồn mình lơ lửng với những bản nhạc trữ tình từ những ca sĩ địa phương trình bầy. Đó là những sinh hoạt mà tôi thường làm trong những chuyến rong chơi tại Đà Lạt.
Hôm đó, cũng như mọi lần. Buổi sáng, trời Đà Lạt ấm áp, không mưa tôi theo chuyến xe đò địa phương đến thăm viếng một cơ sở sản xuất nông sản tại một thị xã không quá xa trung tâm tỉnh thị Đà Lạt. Đến khoảng 11 giờ trưa, sau khi hoàn tất cuộc thăm viếng, tôi lang thang ngắm nhìn sinh hoạt tại khu trung tâm thương mại một lúc rồi ghé vào một quán nước trên con đường chính của địa phương. Quán nước dù khá tươm tất so với những nhà buôn bán ở chung quanh, nhưng cũng chỉ đơn sơ với 4 cái bàn nhỏ thấp chân bằng plastic. Sát tường phía sau của quán, một cái tủ kính đựng những món ăn dân giã như bún trộn hành hẹ, mì xào tôm… Sát bên cạnh tủ kính, một chiếc bàn gỗ thô sơ, mặt bàn loang lổ vết cháy đen, trên bàn một đống bát đĩa, đũa muỗng dành cho khách ăn uống. Dưới đất, sát chiếc bàn 5, 7 trái dừa xanh cùng một két nước giải khát đủ loại. Phía sau chiếc bàn gỗ bà bán hàng khá đứng tuổi đang loay hoay thu dọn nồi chảo, thức ăn… Nhìn vẻ dân dã, tạp nhạp đồ ăn thức uống của quán, có lẽ gọi đây là một quán ăn hay quán nước đều chính xác.
Khi tôi bước vào quán, bà chủ ngước mắt bâng quơ nhìn tôi, người khách duy nhất rồi bà ta lại chú tâm vào việc thu dọn. Cho đến khi tôi đã ngồi vào chiếc ghế trước cái bàn trong cùng của quán, bà ta mới bỏ công việc thủng thẳng đến trước mặt tôi, đưa mắt nhìn tôi, không nói tiếng nào nhưng ra vẻ chờ đợi. Cũng chẳng chú ý đến thái độ lơ là tiếp khách của bà chủ quán, ngước mắt nhìn bà ta tôi nói:
-Chị cho tôi một trái dừa.
Bà ta cũng chẳng trả lời, đi vào đống dừa, lựa chọn một trái để lên bàn dùng dao cắt khoanh lớp vỏ rồi cắm một ống hút vào đặt trên bàn trước mặt tôi. Bà ta cũng chẳng nói gì rồi quay vào phía sau làm việc tiếp tục. Ngồi được khoảng một lúc thì một nhóm đông khoảng 14, 15 học sinh khoảng 17, 18 tuổi, trong đó chỉ có 4 nam sinh còn lại toàn là nữ sinh. Cả đám vào quán nói chuyện, cười đùa rôm rả làm mất đi cái không khí im lặng nhạt nhẽo của quán khi chỉ có một mình tôi trong quán. Nhóm học sinh chia nhau từng nhóm ngồi quanh 3 chiếc bàn còn trống trong quán. Nhưng số người quá đông, không đủ chỗ ngồi cho cả nhóm, một cô gái tóc dài thả lỏng ngang vai, khá xinh, nhanh nhẹn rất tự tự tin, không một tí ngại ngần, nhìn tôi cô bé nói:
-Xin lỗi bác cho chúng cháu được ngồi chung bàn với bác.
Đưa tay chỉ vào mấy chiếc ghế trống đối diện, vui vẻ trả lời:
-Có gì đâu mà lỗi với phải, các cháu cứ ngồi xuống đi.
Thế là cô gái và 2 người bạn, một trai, một gái cùng ngồi xuống diện với tôi quanh chiếc bàn. Qua vài lời trao đổi của họ với nhau, tôi biết họ là học sinh của một trường trung học phổ thông ( trung học cấp 3 gồm lớp 10, 11 và lớp 12 ban trung học ngày nay ) nào đó của khu vực gần quán. Họ là những học sinh từ vùng xa, không tiện về nhà vào buổi trưa nên hàng ngày mang cơm hộp cho bữa ăn trưa, rủ nhau ra những quán nước gần trường ăn uống vui đùa chờ đợi cho giờ học buổi chiều.
Đám đông vẫn không hết ồn ào, đùa giỡn, chọc ghẹo nhau, mỗi người lấy trong cặp hay túi xách ra những món ăn trưa. Người thì đơn giản với một ổ bánh mì, người thì chuẩn bị tốt hơn với hộp cơm trưa kèm theo vài món tráng miệng… Họ vừa ăn vừa nói chuyện cười đùa rôm rả. Vài ba người hướng về bà chủ quán đặt món ăn thêm như đĩa mì xào, dấm đu đủ bào sợi hay ly trà đá… Hai cô gái ngồi cùng bàn với tôi cũng bàn luận chia nhau một đĩa xôi lạp xưởng… Rồi cũng qua lời nói chuyện của họ tôi lại biết thêm cô gái xinh xắn, người đầu tiên xin phép để ngồi cùng bàn với tôi, tên là Thuý Vi, lớp trưởng của nhóm. Kín đáo nhìn cô gái có khuôn mặt thông minh, ánh mắt đầy tự tin, lời nói rõ ràng khúc chiết, đã cho tôi nhiều cảm mến. Sau một tí suy nghĩ, đắn đo tôi nhìn cô bé lớp trưởng và nói:
-Không giấu gì các cháu, bác là một ông giáo hồi hưu. Bác có một đề nghị, muốn được mời tất cả các cháu, mỗi người một món ăn, tự chọn bất cứ một món ăn nào trong quán này, không kể mắc rẻ. Cháu là lớp trưởng, hãy nói với các bạn về lời mời của bác xem sao?!
Lời đề nghị của tôi không những cô bé lớp trưởng Thuý Vi mà cả mấy người ngồi chung quanh ra vẻ ngạc nhiên cùng hướng mắt nhìn tôi với tất cả ngỡ ngàng. Chậm rãi, rõ ràng, từng câu, từng chữ, nhìn họ tôi lập lại lời đề nghị của mình một lần nữa, lớn giọng hơn cho tất cả mọi người đều nghe. Sau một lúc trao đổi giữ họ với nhau, cuối cùng cô bé lớp trưởng đứng dậy hướng về nhóm bạn :
-Các bạn chắc đã nghe rõ lời mời của thầy rồi phải không? Vậy các bạn nghĩ sao, xin cho biết ý kiến.
Những tiếng vỗ tay, tiếng cười nói vui vẻ , lời cám ơn… của mọi người dành cho tôi. Với nụ cười thích thú vì lời mời của mình được mọi người hoan hỉ chấp nhận, tôi đứng dậy hướng về họ chậm rãi nhắc lại lời mời:
-Các cháu đừng ngại ngần với lời mời của tôi. Mỗi người cứ thoải mái nói bà chủ quán làm cho một món ăn hay đồ uống nào mà các cháu thích. Các cháu hãy coi như một món quà của một ông giáo hồi hưu dành cho học trò của mình mà thôi. Chẳng có gì là to lớn cả.
Mọi người vui cười, sau một lúc thảo luận với nhau , họ lần lượt đến đặt món ăn, nước uống với bà chủ quán. Bà chủ quán lúc này không còn vẻ lạnh lùng, vô cảm nữa. Bà cười vui nhìn tôi với ánh mắt thân thiện. Có lẽ bà vui mừng vì bán được nhiều món ăn mà còn được chứng kiến một sự kiện rất khác thường. Một ông giáo già hồi hưu hoài tưởng lại việc dậy học của mình mà bỏ tiền ra đãi lũ học sinh ăn uống dù không hề quen biết.
Tôi và lũ học trở nên thân thiết, cởi mở hơn trong cuộc nói chuyện. Họ hỏi rất nhiều về cuộc đời cũng như công việc của tôi trong quá khứ. Dĩ nhiên tôi kể cho họ nghe về cuộc đời khá cực nhọc của tôi, sinh ra trong bom đạn, chiến tranh rồi trôi nổi vào miền Nam khi đất nước phân đôi. Thời thế đẩy đưa kích thích tôi vươn lên trong đèn sách, bước vào nghề giáo tư gia ngay từ khi còn ở tuổi đôi mươi cho đến khi tốt nghiệp đại học thì mới thực sự với bảng đen, phấn trắng làm hướng sinh nhai. Trong cuộc nói chuyện với họ, tôi luôn luôn tránh né, cố gắng không cho họ biết tôi đã rời xa đất nước quá lâu, đang định cư tại hải ngoại… Tôi không cho họ biết những điều đó, chỉ vì tôi không muốn giữa họ và tôi có sự cách biệt làm mất đi sự thoải mái, chân tình lúc tâm sự. Đơn giản chỉ có thế mà thôi. Tôi không lừa dối họ vì tôi không muốn dưới mắt nhìn của họ tôi là một ông Việt kiều về nước giàu có “cưỡi ngựa xem hoa“ nói toàn những chuyện tầm phào xa rời thực tế.
Sau khi đã tìm được vị trí của mình trong tình thân thiện của họ, tôi muốn dẫn họ vào lãnh vực lãng mạn trong văn chương, một lãnh vực mà tôi rất thích thú, si mê. Tôi đề cập đến Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, mà họ đã học qua trong chương trình phổ thông trung học.Tôi nói lướt qua câu truyện trong tác phẩm để họ nắm bắt rồi tôi hỏi cảm quan của họ về những nhân vật trong tác phẩm.
Câu hỏi của tôi đã tạo ra những cuộc bàn cãi rất hăng say. Người thì mê say sắc đẹp nghiêng núi đổ thành của Thuý Kiều. Người thì vươn mình, vung tay mơ ước vẻ hào hùng, dũng mãnh của Từ Hải. Người khác thì nhỏ nhẹ, mắt nhìn ước mơ khi nói đến vẻ sang trọng, hào hoa của Kim Trọng mà ngâm:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Trong cái không khí ồn ào đầy thi vị đó, tôi cười vui, cũng chẳng giấu giếm mọi người, tôi cho họ biết tôi đã từng ngẩn ngơ mê về sắc đẹp và tài năng, không người so sánh của Kiều. Nói đến tài năng của Kiều, tôi dẫn họ vào cảnh trên đường về nhà sau lễ hội đạp thanh. Kiều nhìn thấy ngôi mộ lạnh lẽo bên đường của Đạm Tiên mà thương xót cho kiếp đời cay nghiệt của Đạm Tiên, rồi tức cảnh sinh tình, Kiều rút trâm trên mái tóc làm một bài thơ cảm thán trên da cây:
Rút trâm giắt sẵn mái đầu
Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Cảm xúc của Kiều đã kích động hồn ma của Đạm tiên, gây ra những hiện tượng lạ kỳ làm cho mọi người khiếp sợ, Kiều cho rằng hồn Đạm Tiên đã hiểu lời khấn nguyện của mình, nên càng xúc động, Kiều lại trổ tài, vạch một bài cổ thi vào gốc cây dành tặng kẻ tri tâm:
Đã lòng hiển hiện cho xem
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Không những thế, khi trở về nhà Kiều vẫn không quên được cuộc đời lắm nỗi đoạn trường của Đạm Tiên rồi nằm mơ thấy Đạm Tiên hiện về tâm sự thân thiết với Kiều, đưa cho Kiều 10 đề tài để nhờ Kiều trổ tài văn chương. Tuyệt vời thay, chỉ với một cái vẫy tay mà Kiều đã làm đủ 10 bài ca ngâm làm cho Đạm Tiên phải ngỡ ngàng cảm phục:
Kiều vâng lĩnh ý đề bài
Tay tiên một vẫy, đủ mười khúc ngâm
Xem thơ nức nở khen thầm
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường.
Nhóm học sinh, tất cả im lặng, đổ dồn cảm xúc theo những câu Kiều mà tôi đọc cho mọi người nghe để diễn tả tài thơ văn của Kiều. Im lặng tí chút để cho mọi người trở lại với thực tại, tôi nói:
-Tài văn chương, thơ phú của Kiều hay đến mức đã lay động được linh hồn kẻ tri âm như thế. Bước sang lãnh vực âm nhạc, có thể nói Kiều là một phù thuỷ của âm thanh, một thiên tài phô diễn tiết điệu.
Để chứng minh, tôi dẫn nhóm người trẻ đang bập bềnh thả lỏng cảm xúc theo những câu Kiều mà tôi đã đọc cho họ nghe. Tôi dẫn tưởng tượng của họ vào cảnh Kiều, vì nhớ thương Kim Trọng, nhân lúc mẹ cha không có nhà mà vượt rào sang nhà trọ đánh đàn cho Kim trọng nghe. Tình yêu, lãng mạn và dấn thân chính là những căn bệnh của tương tư vậy.
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã, phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng
……….
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
………
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
……….
Khi nghe tôi đọc những câu thơ tả cảnh Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe, cả nhóm học đều im lặng, thẩn thờ thả hồn theo giọng đọc lên xuống của tôi. Ngay chính cá nhân tôi khi đọc những vần thơ này cũng bị dìm vào cảm giác say sưa với tài năng âm nhạc của Kiều. Tuyệt vời thay THUÝ KIỀU, một giai nhân sắc nước hương trời, một tài năng trau chuốt âm thanh không người so sánh! Trong lúc tôi đang bay bổng với những câu Kiều do chính tôi đọc cho mọi người nghe, cô gái cùng bàn với tôi hình như cũng cảm nhận được vẻ thẩn thờ của tôi, với tí ngập ngửng cô ta hỏi nhẹ:
-Thầy, có bao giờ thầy gặp hay quen biết người phụ nữ nào đẹp và tài giỏi như cô Kiều chưa ạ ?
Câu hỏi của cô học sinh không quá lớn nhưng đã kéo tôi vào thực tại. Với chút luống cuống vì câu hỏi của cô gái. Im lặng tí chút rồi chậm rãi trả lời:
-Tôi học truyện Kiều khi tôi 17, 18 tuổi, nhưng thành thật ngày đó tôi không có cảm giác gì nhiều với tác phẩm, có lẽ tôi học vì chương trình thi cử mà thôi. Nhưng khi chớm bước vào đại học, tuổi khoảng 20, tôi đọc lại truyện Kiều. Đó là thời điểm tôi hiểu và thích truyện Kiều. Tôi mê say tài sắc Thuý Kiều, tôi cảm thương cuộc đời sóng gió, truân chuyên của Kiều. Nhan sắc của Kiều trong văn chương nhưng cũng trong ước mơ, tưởng tượng của tôi, một thanh niên đang tuổi mộng mơ, nhiều tưởng tượng.
Ngừng lại tí chút, như để hoài nhớ lại dĩ vãng, tôi nói tiếp:
-Tôi mê Kiều đến nỗi, khi đi ngoài đường, trên phố. Khi lang thang du lịch đó đây trong nước hay hải ngoại và cả những lần tham dự các buổi hòa nhạc, kịch nghệ, theo dõi những chương trình tranh đua hoa hậu trên truyền hình … Những dịp đó tôi đã nhìn thấy rất nhiều người phụ nữ xinh đẹp, quý phái, tài năng. Tôi ngắm nhìn nhan sắc của họ và tự hỏi những nhan sắc đó có đẹp và tài năng như Thuý Kiều trong tưởng tượng của tôi không ? Thật buồn, nhìn ngắm họ tôi vẫn thấy ở họ có cái gì đó kém thua xa Thuý Kiều trong mơ tưởng của tôi.
Đưa mắt nhìn mọi người, tất cả đang chú ý theo dõi lời phân trần của tôi, tôi nói tiếp:
-Vào những năm đầu tiên lên đại học, tôi rất thích đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Hai người phụ nữ mà tôi thích, tôi mê nhất, với tôi họ thực sự là giai nhân đã cho tôi rất nhiều tưởng tượng, đờ đẫn về họ . Đó là Tiểu Long Nữ trong phái Cổ Mộ, một giai nhân có nét đẹp liêu trai, cái đẹp được giấu kín trong vẻ lạnh lùng sắt đá, không cởi mở. Những cái đó làm cho vẻ đẹp của Tiểu Long Nữ có phần nghiêm khắc, ma mị làm cho người ta sợ hãi không dám đến gần. Người đẹp thứ hai, Vương Ngọc Yến trong Thiên Long Bát Bộ, nét đẹp quý phái, sang trọng, thông minh. Với tôi Vương Ngọc Yến biểu tượng cho một nhan sắc có tâm hồn trong trắng, hiền hậu. Nét đẹp của Vương Ngọc Yến là nét đẹp sinh ra để làm một người vợ yêu chồng, một người mẹ thương con. Nhan sắc đó dành riêng cho một gia đình hạnh phúc, nhưng không phải cái đẹp của người tình nhân, lãng mạn ,yêu đương! .
Rồi với tí chút ngần ngừ tôi nói tiếp:
-Đúng như vậy, với tôi Thuý Kiều là một giai nhân toàn vẹn tài và sắc. Nhan sắc đáng để người ta si mê, mơ mộng ao ước đến gần. Với người có tâm hồn nghệ sĩ thì sắc đẹp của Thuý Kiều là cảm hứng giúp người ta làm thơ, viết truyện… !
Khi tôi vừa dứt lời, tất cả mọi người vỗ tay tán thưởng vì những nhận xét của tôi về NHAN SẮC của giai nhân. Mỗi người một câu thêm bớt vào lối nói chuyện của tôi. Dĩ nhiên cũng có vài ba người chẳng ngại ngần nói về cái đẹp của giai nhân trong tưởng tượng, si mê của họ. Trong lúc tôi đang thích thú được nghe những lời bình phẩm của mọi người, cô bé lớp trưởng đưa mắt nhìn tôi, cô ta hỏi nhẹ:
-Thầy nghĩ sao về vẻ đẹp của những cô hoa hậu, á hậu trong những cuộc tranh tài người đẹp vừa qua tại Việt Nam?
Đưa mắt nhìn cô gái xinh xắn, khuôn mặt trái xoan, ánh mắt tự tin, tôi trả lời rành mạch:
-Theo tôi những người đẹp trong các cuộc tranh tài hoa hậu, nhìn ngắm nét đẹp của họ, ai ai cũng phải công nhận là họ đẹp. Đó là cái đẹp của quần chúng, cái đẹp trong cân đối về thể xác, cái đẹp để người ta chụp ảnh, vẽ tranh trên những bảng quảng cáo hay tờ lịch…. Với tôi, một người đàn ông khôn ngoan đừng dại khờ, ước mơ nắm giữ nét đẹp đó bởi vì nó sinh ra để cho nhân gian ngắm nghía chứ không dành riêng cho một ai! Nếu ai dại khờ mà say đắm, si mê mong chiếm giữ nó thì nhiều phần sẽ phải nhận lấy khổ đau, thất vọng. Đó là cái đẹp khách quan, cái đẹp cho muôn người ngẩn ngơ mong muốn sở hữu nó . Còn cái đẹp mà tôi muốn nói với các anh chị, tưởng là bình thường nhưng nó lại làm cho người ta tôn vinh, xiêu đổ… Đó là cái đẹp chủ quan. Nhan sắc này mới làm cho người ta si mê, tôn trọng bởi vì nó mang hạnh phúc, tự hào cho chồng, cho con không phải chỉ một thoáng chốc bên nhau mà rất dài lâu, có khi niềm vui còn kéo dài nhiều thế hệ.
Tôi vừa dứt lời, tất cả mọi người đều vỗ tay tán thưởng. Một nam sinh, khá đẹp trai, mái tóc bồng bềnh có tí chút nghệ sĩ, ngồi với 3 người khác tại cái bàn gần sát đường lộ. Anh ta đứng dậy, đưa tay lên vuốt mái tóc nghệ sĩ của mình rồi nói khá to:
-Thầy có biết không, Thuý Vi lớp trưởng của chúng em, được mọi người gọi là Thuý Kiều đó thầy ạ!
Câu nói của chàng tóc bồng bềnh, gây ra khá nhiều ôn ào vì tiếng cười vui, chọc ghẹo trong bạn bè. Hơi nhíu mắt, mỉm cười nhẹ, tôi nhìn cô bé lớp trưởng Thuý Vi, ra ý chờ đợi lời giải thích của cô bé. Cô bé lớp trưởng đưa mắt nhìn anh chàng tóc bồng bềnh với vẻ trách móc rồi lí nhí trả lời:
-Thầy, đừng nghe các bạn nói bậy, nói bạ đó!….
Thấy cô bé có vẻ ngượng ngùng, lí nhí không thể nói trọn ý của mình, tôi nhìn cô bé rồi chấn an:
-Có gì đâu mà em phải bực bội! Đó không phải là lời khen tặng kín đáo dành riêng cho em sao? Tôi chúc em gặp được một anh chàng Kim Trọng, trong hạnh phúc trọn vẹn không bị những khổ ải như Thuý Kiều trong câu truyện.
Tôi vừa nói dứt lời, một tràng pháo tay kèm với những lời chọc ghẹo của cả lũ học trò cả trai lẫn gái trong khi cô bé lớp trưởng Thuý Vi ngượng ngùng, đưa tay vuốt tóc, nhìn người bạn trai tóc bềnh bồng ra vẻ giận hờn. Nhưng hình như trong ánh mắt, cô bé lớp trưởng có cái gì đó tự hào,vui vui!
Rồi cứ thế, ồn ào vẫn tiếp diễn càng lúc càng nhiều những câu chọc ghẹo đổ dồn vào cô bé lớp trưởng. Tôi thấy cần phải chấm dứt tình trạng buông lung không thích thú này, đưa tay lên ra ý mong mọi người im lặng rồi tôi đề nghị chuyển đề tài văn chương sang một dạng thức mới.
Mọi người trả lại tôi trong im lặng, họ đưa mắt nhìn tôi ra vẻ chờ đợi. Tôi đề cập đến một nhà thơ, một vị anh hùng trong lịch sử nước nhà. Người mà tôi rất thích, say mê những sáng tác văn chương ngạo mạn và cả cuộc đời rất sôi động, oai hùng đầy thi tứ của ông trong đường quan lộ, đó là Nguyễn Công Trứ. Với tôi ông là một thần tượng trong văn chương, thơ phú nhưng cũng là một tấm gương sáng, đã giúp tôi đứng dậy khi gục ngã, tự tin tiến bước khi gặp phải những khó khăn. Nhờ ông, tôi đã có cái khuôn của “KẺ SĨ” để noi theo dù tôi chỉ là một người ở một mức rất tầm thường giữa nhân gian. Dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ hung hăng đến mức ngu đần mà dám sánh mình với Nguyễn Công Trứ, một kỳ tài văn võ song toàn trong lịch sử nước nhà.
Rồi tôi đọc cho họ nghe những câu thơ đầy cao ngạo, khí chất anh hùng, kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ:
…………..
Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt (1)
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên (1)
……..
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu đễ
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
……..
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu vị căn sằn
Xe bồ luân dầu chư gặp Thang Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
……..
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.
…….
(1) Trong quan trường có 5 chức tước, Sĩ là một trong đó ( Công; Hầu ; Khanh; Tướng và Sĩ ). Xã hội có 4 loại dân, Sĩ chiếm hàng đầu ( Sĩ ; Nông ; Công và Thương).
Tiếp theo, tôi đọc tiếp bài “Chí Làm Trai “cho mọi người nghe:
…………..
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
……….
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ
……..
Mọi người im lặng như bị chìm vào những câu thơ hào hùng “Kẻ Sĩ” mà tôi sang sảng đọc cho họ nghe. Chính tôi cũng bị dìm mình vào những vần thơ mà ngày xưa, thời còn trẻ tôi vẫn ngâm nga với tí chút cao ngạo mỗi khi vượt qua được những thua kém trong đời mình. Hôm nay ngồi trước nhóm người trẻ, thế hệ con của mình, tôi muốn truyền đạt cho họ những âm thanh hào hùng tự tin trong những vần thơ sôi sục chí nam nhi của Nguyễn Công trứ. Nhưng tôi chợt nghĩ, nếu chỉ dẫn mọi người vào những vần thơ cao ngạo đó thì không lột tả được toàn diện con người đa tài, đa sắc mầu của Nguyễn Công Trứ. Tôi bèn dẫn mọi người vào cái hình tượng khác của Nguyễn Công Trứ hình tượng của một kẻ nhàn du, lãng mạn với rượu nồng, với khách cầm ca…. tôi đọc:
Vắt chân ngồi bạn với khách cầm ca
Cuộc tỉnh say, bầu rượu chén trà
Con đắc ý thùng thùng, đôi tiếng trống
Bạch tuyết thanh cao oanh yến lộng ( 1)
Quân thiều hưởng triệt cổ chung minh (1)
Này tiếng đàn tinh tính tịch tình tang
Thú vui thú, ném vang vàn tráng sĩ
(1) Giọng hát cao vút của ả đào Oanh, Yến.
Nghe tiếng trống khi hát ca mà tưởng trống lúc hành quân
Nguyễn Công Trứ về hưu năm 71 tuổi, ông thực sự từ bỏ việc đời, hoà mình vào hưởng nhàn với thơ phú, tửu lầu, hát xướng văn chương. Đúng như vậy, Nguyễn Công Trứ một quan võ tung hoành nơi chiến tuyến, một quan văn, lương đống chốn triều đình, nhưng Nguyễn công Trứ còn là một lãng tử ăn chơi tuổi hồi hưu, dạng người mà tôi rất cảm phục, ước mơ:
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ tơ đào còn mảnh khảnh
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất toạ lê hoa áp hải đường (ngồi bên người đẹp)
………..
Tân nhân lục vấn lang niên kỷ (Nàng hỏi chàng bao nhiêu tuổi)
Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam (50 năm về trước ta 23 tuổi)
Tôi đang định dẫn những người trẻ vào những bài thơ tả cảnh nghèo thời hán nho của Nguyễn Công Trứ, nhưng một cô gái đứng lên, cô bé hỏi tôi:
-Thưa thầy, qua những vần thơ thầy đọc, những tâm sự thầy kể lể. Em và các bạn có cảm tưởng thầy sống rất lạc quan, không bao giờ buồn phiền phải không ạ?
Đưa mắt nhìn cô gái, ngẫm nghĩ tí chút, tôi trả lời:
-Chị nghĩ tôi là người sắt đá, vô cảm hay sao mà không có những lúc buồn chán, buông xuôi?! Không như thế đâu! Có những lúc tôi cúi đầu thở dài vì những nhớ nhung, buồn chán nhân sinh, mệt mỏi vì thất bại … chợt đến với tôi sao?
Rồi tôi kể cho cả nhóm nghe, vài ba năm trước trong một chuyến đi thăm một người bạn ở miền bắc nước Pháp vào tháng 10 mùa thu. Một hôm, lang thang trên những con đường vắng vẻ khu vực gần nhà, trong không gian lành lạnh, hàng cây, con đường…. như bị nhuộm vàng bởi lá thu rơi. Tự nhiên cảm giác buồn chán đến với tôi, ngoái nhìn lại mình, mái tóc đã bị thời gian nhuộm trắng, công danh thì như bọt bèo đến rồi đi, tất cả chỉ là ảo ảnh. Với tâm trạng chán nản đó khiến tôi nhớ đến vài câu thơ trong bài “Cảm thu-Tiễn thu“ của Tản Đà mà thở dài:
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi!
Một lần khác, tôi lang thang đến Kontum đế sát vùng biên giới Việt Nam – Lào. Không gian hôm đó sương phủ rừng cây, khí trời hơi lành lạnh khiến tôi nhớ đến bản nhạc “ Chiều mưa biên giới“ của Nguyễn Văn Đông. Một trong những bản nhạc mà ngày xưa, lúc còn tuổi thanh niên tôi rất thích. Bản nhạc mô tả một chiến binh ngơ ngác, ở ngã ba đường rừng giới tuyến lúc trời mưa lạnh mà không biết đi đâu, về đâu trong tâm trạng chán nản với phong hầu:
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều anh ơi!
Tôi tự nhiên hát nhè nhẹ bản nhạc mà lòng mình như trĩu nặng khi quay nhìn lại mình, những năm tháng đua chen trong xã hội, tranh dành chức vị… nhưng tất cả cuối cùng cũng chỉ là chữ KHÔNG!
Rồi lần khác, tôi đến thăm viếng thủ đô Viên Chăn,nước Lào. Một buổi chiều tối, lang thang, ngắm nhìn những chùa chiền, đền đài cổ xưa của thành phố. Bất thình lình tôi thấy một phụ nữ Lào, rất đẹp, quý phái trong trang phục cổ truyền, đơn độc đứng trên ban công của một dinh thự cổ kính thời Pháp thuộc, bà ta thẫn thờ, im lặng đưa ánh mắt nhìn xa xa. Trong không gian vắng vẻ, im lặng của hoàng hôn, vẻ cô đơn buồn bã của thiếu phụ hiện rõ trước mắt tôi, đã làm tôi chạnh buồn khi hoài nhớ đến những năm tháng bôn ba, kiếm sống của mình, thời gian qua mau mà mình đã không cảm nhận được.
Cuối cùng, thành công, thất bại, tất cả cũng qua đi, chỉ còn lại là tuổi già và hư vô. Trong tâm trạng không vui đó làm tôi nhớ đến bài thơ “Khuê oán“ của Vương Xương Linh. Bài thơ mô tả cảnh người thiếu phụ đẹp sang, vào một ngày mùa xuân một mình trên lầu khuê các, chợt thấy khóm liễu rũ bóng xa xa đầu đường, đã làm cho bà ta hối hận vì đã xúi giục chồng rời xa mình đi kiếm công danh:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mích phong hầu.
Tản Đà dịch:
Trẻ trung nàng biết đâu sầu
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm trăng
Chợt trông vẻ liễu bên đường
Phong hầu nghĩ dại xui chàng kiếm chi !
Trong hoàn cảnh đó làm cho tôi buồn nhớ nhà, nhớ đến vợ con và mấy đứa cháu nhỏ mà buông tiếng thở dài! Trong tâm trạng cô đơn đó, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ cuối cùng trong bài “Hoàng Hạc Lâu “ của Thôi Hiệu diễn tả buổi hoàng hôn tại thượng nguồn con sông. Tác giả nhìn làn sóng nhấp nhô mà chợt nhớ đến quê hương của mình, tự hỏi giờ nó ra sao?
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân hầu
Vũ Hoàng Chương dịch:
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán
Đừng dục cơn sầu nữa sóng ơi!
Sau khi đọc xong những bài thơ, câu hát mô tả những phút giây buồn chán, nhớ nhà, nhớ quê của tôi trong những lần lang thang, xa gia đình vợ con… để trả lời cho cô bé học sinh hỏi tôi có bao giờ tôi buồn chán hay không. Tôi đưa ánh mắt nhìn cô ta tôi nói tiếp:
-Chị thấy không? Cuộc sống của con người là như thế, chẳng có ai mãi mãi hạnh phúc vô lo trong cuộc sống, luôn luôn có mầm phí lý ở bên trong. Huống chi là tôi, một người quá tầm thường giữa nhân gian. Sinh ra lớn lên trong thiếu thốn, thua thiệt thì làm sao mà chẳng có những lúc quay nhìn và nhớ đến những tháng năm trôi qua trong đời mình mà không buông tiếng thở dài chán nản sao ?
Tôi vừa dứt lời thì một nam sinh khác, ngồi đối diện bàn của tôi, đứng dậy hỏi:
-Thưa thầy, phần lớn tác giả và tác phẩm mà thầy vừa nói đến, đều có trong chương trình phổ thông của chúng em. Hôm nay qua lời diễn giải của thầy đã làm chúng em hiểu rõ hơn, thích thú hơn. Tuy nhiên còn một thể thơ nữa trong môn văn, chúng em rất thích đó là văn thơ mới. Nếu lại được thầy dẫn giải, truyền cảm hứng cho chúng em thì thật là một điều thích thú, chúng em mong thầy chấp nhận.
Đưa tay nhìn đồng hồ, thấy vẫn còn rộng rãi thời gian, mà món thơ văn mới là một trong vài thích thú, ham mê của tôi, không một tí lưỡng lự, tôi đồng ý.
Lại một tràng pháo tay cùng những tiếng ồn ào dành cho lời chấp nhận của tôi.Tôi cho họ biết, phong trào thơ mới còn gọi là thơ tự do xuất hiện vào khoảng thế kỷ 20, không phải chỉ có tại Việt nam mà còn tại nhiều quốc gia Á châu khác như Thái lan, Mã lai, Indonesia, Trung hoa , Đại Hàn, Nhật bản. Một lối thơ do ảnh hưởng của Âu châu, lối thơ này không bị gò ép vào bất cứ luật lệ, số câu, số chữ, dài ngắn hay niêm vần nào như trong lối thơ cổ điển. Người làm thơ chỉ cần sử dụng ngôn từ, xếp câu, xếp ý cho hay, giúp cho người đọc ngắt câu (tiết tấu) mà tạo cảm xúc cho chính mình và người nghe.
Rồi tôi đọc cho mọi người nghe bài “ Tiếng thu“ của Lưu Trọng Lư, bài thơ rất ngắn bất cứ ai khi đọc bài thơ đều có cảm giác như bị lôi cuốn vào âm thanh xào xạc của lá mùa thu rơi rụng trong vẻ ngơ ngác của nai vàng đạp trên lá rừng khô. Khi đọc bài thơ kéo người ta vào cảm nhận được nỗi buồn cô quạnh của người vợ nhớ chồng nơi chiến tuyến. Một bài thơ tự do rất ngắn nhưng tuyệt vời về câu chữ, âm thanh và tình cảm trong thơ :
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Khi đọc bài “Lời Kỹ Nữ “ của Xuân Diệu, người ta cảm thương nỗi cô đơn, buồn đau của người kỹ nữ khi phải rời xa tình lang, một kẻ giang hồ sông nước:
Khách ngồi lại cùng em thêm chốc nữa
Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi
Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở lòng em cô độc quá
Khách ngồi lại cùng em đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say
Đây rượu nồng, và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước !
Tuyệt vời thay những câu thơ tả tình, tả cảnh làm cho người đọc khó tính thế nào cũng phải im lặng cho nỗi buồn nhè nhẹ vướng vào tim. Đọc xong 2 bài thơ mới, không gian trong quán nước thật im lặng đã làm tôi có chút ngẩn ngơ khi nhìn thấy mọi người đang dìm cảm xúc vào những vần thơ lãng mạn mà tôi vừa đọc cho họ nghe.
Đưa mắt nhìn chung quanh, đã làm tôi cảm động không ngờ. Từ lúc nào mà tôi không biết mọi người đã mang ghế đến ngồi vây quanh tôi, họ nhìn tôi trong ánh mắt thân thương. Với tí chút đắn đo, tôi lại dẫn họ vào một bài thơ mới khác. Tôi kể cho họ nghe, một hình phạt cho những học sinh phạm lỗi tại các các trường trung học ở miền Nam, thời tôi còn là cậu học trò cấp trung học. Người bị phạt phải mang sách đến trường ngày chủ nhật để làm bài tập, chép phạt hay làm việc gì đó tuỳ theo dạng thức lỗi lầm của họ. Hình phạt này được gọi là congsige nôm na có nghĩa là “ đi học chủ nhật “.
Sau khi nói cho họ hiểu về hình phạt, tôi đọc bài thơ “ Trẫm có nhớ Ái khanh không“ của Nhất Tuấn. Một bài thơ dễ thương, mô tả một cô học sinh vì chiều lòng người yêu, đi coi phim rồi về nhà muộn. Buổi sáng hôm sau vì dậy muộn đến trường trễ nên bị cô giáo phạt “học chủ nhật “ :
Chỉ tại anh nên hôm qua dậy muộn
Cứ phim hay, tài tử trứ danh hoài
Anh quảng cáo và tô mầu giỏi thế
Hỏi ai còn nỡ thất hẹn ngày mai
Chỉ tại anh, nên hôm nay dậy muộn
Sáng thứ hai bỏ mất một giờ đầu
Bốn congsiges, cô giáo già ác gướm
Lại còn bắt chép phạt mấy trăm câu.
Ngày thứ tám, em vào ngồi chép phạt
Mấy trăm câu mà viết mãi không xong
Bà giám thị cầm giấy lên chỉ thấy:
Chúa nhật này, Trẫm nhớ Ái Khanh không ?
Đọc xong bài thơ của Nhất Tuấn, tôi đưa mắt nhìn đám học trò vây quanh, không gian vẫn im lặng. Hơn chục cặp mắt mơ màng hướng vào tôi. Mọi người cũng như tôi đang để hồn mình lơ lửng với những vần thơ lãng mạn yêu đương. Tình yêu là thế, từ ngàn xưa vẫn là thế, luôn luôn có cái gì đó rất khó hiểu làm người ta đắm say, mê mẩn.
Không muốn làm mất cảm giác đang mơ mộng của mọi người,tôi lấy giọng đọc thêm một bài thơ “Gọi em” của Nguyên Sa, với lối làm thơ rất phóng khoáng, bung phá chỉ dựa vào ý từ và tiết tấu câu thơ nhưng lại làm cho người đọc mê mẩn. Tôi rất thích và đã bao lần bắt chước để làm vài câu thơ giải toả tâm tư của mình hay dành tặng cho ai đó như một món quà, một dấu tích nhớ thương nhau:
Tôi bảo rằng, em phải về ngay.
Nếu em là gió, tôi sẽ là trăng. Em là trăng, tôi sẽ là mây. Còn nếu em là mây tôi sẽ làm gió thổi. Còn nếu em là chân trời xa, tôi sẽ làm cánh chim bằng rong ruổi.Em là mặt trời thì trên đường xích đạo, tôi sẽ muôn đời xin làm kiếp hướng dương.
Tôi bảo rằng, em phải về ngay
Nếu em ngại tâm hồn còn bé dại, tôi sẽ hóa thân làm một cậu bé học trò không bao giờ thuộc bài vì mải mê đọc tên người yêu từ sáng đến chiều, từ đêm đến sáng.
Thiên hạ sẽ thái bình. Đời sẽ trải chiếu hoa cho trăm vạn hùng binh ngồi đánh cờ chiếu tướng.
Đời sẽ thiết lập những kỳ thi có đủ phép tắc thường quy. Tôi được tước phong đứng chủ hội đồng kiêm giám khảo và bao nhiêu người ứng thí đều trúng tuyển hạng ưu.
Tôi cũng không còn phải âm mưu làm một cuộc cách mạng dài vô hạn để nhuốm mầu cờ vũ trụ bằng mầu tóc của em.Còn bao nhiêu đại lộ, công trường tôi không phải hạ hết biển đề tên phố mà viết lên: “Hỡi người yêu, tôi chờ đợi”
Tôi không phải ước ao lên sơn lâm làm một loài thảo khấu cướp của khách vãng lai những bức thư tình, đem lên núi cao đọc to chữ giun dế nghe để chia nỗi niềm cô độc.
Tôi cũng không phải bỏ trốn như sáng hôm nay ra giữ trùng dương để làm một gã thủy thủ già nua lái tầu theo kim chỉ nam mà chỉ thấy toàn là rượu ngọt.
Đọc xong bài thơ của Nguyên Sa, đưa mắt nhìn nhóm học sinh trai gái ngồi quanh tôi. Tất cả mọi người đều im lặng, ánh mắt thẫn thờ, đang thả hồn theo những câu thơ lãng mạn, trữ tình mà tôi đã dùng nhịp thấp, nhịp cao để diễn tả cho họ nghe. Khoảnh khắc không gian trầm lặng, im ắng đó bất chợt bị phá vỡ bởi cô bé lớp trưởng Thuý Vi ngồi bên trái tôi. Trong vẻ đắn đo, cô bé đưa cặp mắt đen trong sáng nhìn tôi và nói:
-Thưa thầy, em và các bạn có cảm tưởng ngoài vai trò một thầy giáo, thầy còn là một nhà văn, nhà thơ nữa phải không ạ?
Nhíu mắt nhìn cô bé kháu khỉnh có đôi mắt sáng trong đầy tự tin, chậm chạp tôi trả lời:
-Đúng như các em đoán, ngoài nghề giáo làm phương kế sinh nhai, thỉnh thoảng tôi cũng viết văn, làm thơ, nhưng chỉ là một thú vui mà thôi. Tôi chưa bao giờ là thành viên của bất cứ hội đoàn chuyên nghiệp nào ở trong và ngoài nước liên quan đến thơ văn. Tôi không có tố chất của một người chuyên nghiệp trong thơ văn. Tôi bước vào lãnh vực này ngoài tìm thú vui cho chính tôi, cho những người thân quen như một món quà văn nghệ vui vẻ trong giao tiếp mà thôi.
Những đề tài tôi viết hoàn toàn chủ quan, gói ghém trong một cái khung sự thật nào đó.Tôi không có khả năng tưởng tượng, hư cấu hoàn toàn chủ đề trong bài viết của mình. Nói nôm na, một người viết lách chuyên nghiệp họ phải như một đạo diễn phim ảnh. Họ có thể sản xuất một cuốn phim tình ái lãng mạn, nhẹ nhàng bóng bẩy, nhưng họ cũng có thể làm một cuốn phim tội phạm, cướp bóc giết người không nhân tính. Đó là chính là tố chất của một người nghệ sĩ chuyên nghiệp vậy.
Ngừng lại tí chút, đưa mắt nhìn nhóm trẻ, họ vẫn im lặng, chú ý theo dõi lời biện bạch của mình, tôi nói tiếp:
-Đúng như vậy, tôi hoàn toàn không có tố chất đó, mặc dù tôi có ít nhiều cảm xúc trong văn chương, thơ phú. Tôi chỉ là một người tìm thú vui trong văn chương cho chính tôi, con người tôi có chút mơ mộng trong cuộc sống mà thôi. Một điều khác nữa mà tôi có rất khiếm khuyết, đó là tôi không có tính buông thả, phóng túng của người làm nghệ thuật. Cuộc sống của tôi khá nguyên tắc, không bung phá, tôi luôn biết giới hạn cảm xúc của mình để không làm tổn hại gia đình, vợ con và cả công việc sinh sống nữa.
Câu trả lời, phân trần khá dài rõ ràng của tôi đã làm cả nhóm người trẻ, nhất là Thuý Vi cô bé lớp trưởng im lặng lắng nghe ra vẻ cảm thông. Lại vài phút im lặng trôi qua, một cô gái khác nhìn tôi, ngập ngừng cô bé nói:
-Thầy có thể đọc cho chúng em nghe một bài thơ của thầy không ạ?
Câu hỏi, lời đề nghị đã làm tôi giật mình, tôi chẳng nhớ một bài thơ nào của tôi cả, lý do rất dễ hiểu là tôi làm thơ trong cảm xúc tức thì, làm xong nghêu nga đọc rồi cho qua. Đôi khi là một món quà văn chương dành cho ai đó mà một thời tôi thân thương, hoài nhớ một kỷ niệm… rồi vì cảm xúc, tôi làm vội vài câu thơ giãi bày tâm trạng của mình mà thôi. Làm xong tự mình thưởng thức hay cho một ai đó rồi cho qua!… Như vậy thì làm sao tôi nhớ được đây? Nhưng với đòi hỏi của cô học sinh đã làm tôi suy nghĩ. Đắn đo tí chút, tôi cũng chẳng muốn giấu giếm họ, những người trẻ mà tôi ngẫu nhiên gặp gỡ họ nhưng cũng rất mến họ . Tôi cho họ biết rất nhiều năm qua, khi về hưu tôi rất thường đi du lịch đây đó. Tôi đi để tìm lại, sống lại với những hoài niệm xa xưa, thời còn trai trẻ, lúc tâm hồn tôi còn nhiều ướt át.
Đà Lạt là một trong vài ba thành phố mà tôi có khá nhiều kỷ niệm. Tôi biết Đà Lạt thoáng qua khi còn là thằng bé 8, 9 tuổi rồi cũng vài ba lần của thời gian học trung và đại học. Nhưng mãi đến khi tốt nghiệp đại học, đi làm việc, Đà Lạt mới thực sự gần gũi với tôi hơn trong tư thế của một thanh niên đã lớn, biết hò hẹn yêu đương. Đà Lạt nghiễm nhiên đã là một địa danh mà tôi có khá nhiều kỷ niệm nên thơ của tuổi trẻ. Nhưng thời gian và hoàn cảnh đã là những yếu tố biến Đà Lạt, thành phố buồn trong kỷ niệm của tôi.
Thời gian vẫn lạnh lùng đi qua, tuổi đời chồng chất… nhưng tôi vẫn về thăm Đà Lạt không phải để hò hẹn, yêu đương như ngày xa xưa, bởi vì tất cả đã lùi quá xa trong dĩ vãng rồi . Tôi đến Đà Lạt lần này, hôm nay cũng như mọi lần trước là để sống với hoài niệm, tìm những dấu tích xa xưa trong nhung nhớ của tôi mà thôi.
Sau khi thả lỏng tâm sự của mình cho cả nhóm người trẻ nghe để họ hiểu lý do tôi đến Đà Lạt lang thang và ngẫu nhiên gặp họ hôm nay. Tôi nói với họ:
-Các em biết đó, lần về Đà Lạt này của tôi cũng vậy, giống như nhiều lần trước đây chỉ là một chuyến lang thang nhìn lại kỷ niệm mà thôi. Hôm nay ngẫu nhiên chúng ta gặp nhau, nói chuyện tâm tình. Tôi sẽ làm một bài thơ không chuẩn bị trước nói về cảm xúc của tôi trong lần trở lại Đà Lạt. Tôi dành tặng cho các em, bài thơ hay hoặc dở không phải là điều chúng ta quan tâm mà quan trọng là chúng ta gặp nhau, cảm mến nhau cho nhau một món quà văn nghệ mà thôi.
Rồi chẳng để cho nhóm người trẻ bàn luận nhiều hơn tôi lấy giọng đọc ngay một bài thơ đơn giản mà tôi dùng ngôn từ và tiết tấu diễn tả cảm xúc cuộc lang thang của mình:
Hôm nay, ta lại về đây, Đà Lạt…
Mong tìm lại những dấu tích xa xưa, của những ngày tháng ta và em bên nhau dạo đó
Ta về đây, sống lại với những hoài niệm trong dĩ vãng không quên. Chuyện chúng mình.
Ta về đây,
Vẫn đi lại những con đường, góc phố công viên.
Tìm lại dấu chân chim của những lần chúng ta bên nhau dạo phố
Em hát, ta làm thơ,
Ta về đây
Thẫn thờ, buồn nhè nhẹ trong tim,
Hàng thông già, ghế đá công viên, nơi em ngày đó đợi chờ ta !
Em ở đâu? Em về đâu?
Hỡi người tình xa xưa, ta tìm kiếm?
Em ở đâu? Có còn nhớ những buổi hẹn hò, những lần bên nhau, trời Đà Lạt lành lạnh, gió, mưa bay ?
Em còn nhớ những con đường, ta và em chạy nhảy vui đùa
Dọc hai bên, cánh hoa đào trắng đỏ lất phất bay bay
Em hát mừng vui, ta làm thơ kỷ niệm.
Hôm nay, ta lại về đây, Đà Lạt xa xưa, dạo ấy.
Để tìm em trong tưởng tượng vu vơ
Nhưng lạ kỳ…
Sao ta buồn rười rượi, cô độc kiếp lang thang.
Ta về đây
Tìm lại những quán cà phê, phòng trà
Nghe lại những âm vang thủa trước
Lại ngẩn ngơ buồn, toàn những bản nhạc kỷ niệm xa xưa
Lại những bước chân tìm dấu vết thân thương
Ta lại buồn, lại nhớ lắm, em ơi
Em ở đâu?
Em về đâu?
Sao hôm nay, lòng ta lành lạnh
Sao hôm nay, buồn ơi, ta muốn khóc, mắt rưng rưng.
Em đâu rồi, hỡi người tình xa xưa dạo ấy?
Ta về đây,
Đà Lạt ơi, nơi kỷ niệm ta nhớ mãi muôn đời.
Đọc xong bài thơ làm vội vàng, hoàn toàn do hứng khởi tức thì của mình xong, chẳng cần chú ý đến thái độ hơi ngỡ ngàng, đờ đẫn của nhóm người trẻ chung quanh mình, tôi nói:
-Có lẽ đã đến lúc chúng ta từ giã nhau rồi. Các em cũng phải chuẩn bị vào trường cho tiết học buổi chiều. Tôi phải về lại thành phố Đà Lạt, vì có hẹn với một gia đình người bạn cũ.
Lời nói của tôi đã làm nhóm trẻ ngỡ ngàng, một người nói:
-Chúng em rất vui mừng được nghe thầy nói chuyện về văn thơ, truyền dậy cho chúng em rất nhiều kiến thức, cảm giác si mê. Thầy có thể cho chúng em một dịp gặp lại thầy, được nghe thầy nói chuyện về văn thơ một lần nữa không ạ.
Chẳng một chút ngại ngần tôi trả lời:
-Cám ơn lòng quý mến của các em, chúng ta gặp nhau thế là quá tốt và quá đủ rồi. Qua cả tiếng đồng hồ tâm sự với nhau, các em cũng đoán được cá tính của tôi không thích gò bó với thời gian và hứa hẹn. Chúng ta gặp nhau, quý mến nhau như thế là đã trọn tình thân thiết rồi. Các em chỉ còn vài ba tháng nữa là tốt nghiệp. Mỗi người sẽ bị số phận, ý thích hay hoàn cảnh đẩy đưa mà theo một phương hướng nào đó. Tôi cầu chúc cho các em có được những cái mà mình mong muốn. Còn tôi thì bản chất thích lang thang, tuổi tôi cũng đã già có lẽ không nên nói trước điều gì trước, để tránh đi những áy náy không vui vì những lời hứa hẹn không thành .
Nói xong tôi đứng dậy trong vẻ bịn rịn của mọi người. Cả nhóm cũng đứng dậy, họ vây quanh lấy tôi. Thuý Vi, cô bé lớp trưởng bối rối, ngần ngừ tí chút rồi đưa tay nắm nhẹ lấy tay tôi:
-Chúng em sẽ ra đón xe cùng với thầy!
Thế là cả nhóm cùng đi với tôi đến trạm đợi xe đò. Những câu đùa vui, thăm hỏi vu vơ và cả những lời chúc tụng họ dành cho tôi. Chiếc xe đò liên thị xã của tỉnh Đà Lạt trờ đến. Không biết có sự xếp đặt trước hay không, cả nhóm khoác vai nhau vây lấy tôi, mọi người nói to lời tiễn biệt. Quá cảm động vì tình thân của họ, tôi cũng dang rộng vòng tay ôm lấy họ mà lòng tôi trĩu nặng! Có lẽ tình cảm nối kéo chia tay của chúng tôi đã làm cho những người khách trên xe và cả người lơ xe ngạc nhiên, cảm mến. Cho đến khi người lơ xe nói to:
-Thôi, từ giã như vậy đủ rồi, để cho thầy lên xe!
Lên xe, tôi ngoái nhìn lại phía sau, những bàn tay vẫy, những câu chúc tụng, những nụ cười chia tay của họ xa dần dần. Tôi nói nhỏ cho chính tôi nghe: “Hôm nay, ta lại có thêm một chuyến lang thang đầy thi vị đáng nhớ trong đời. Tuyệt vời thay!”
(Zuerich năm 2024 )