Đã 13 năm kể từ khi phát hành bộ phim khoa học giả tưởng “Avatar” đạt doanh thu cao nhất mọi thời, đạo diễn James Cameron mới trở lại với phần tiếp theo “Avatar: The Way of Water”…
Dấu ấn cá nhân trong mỗi tác phẩm
Rất công bằng khi gọi Cameron là “cha đẻ của thể loại phim hành động mới” với tác phẩm đầu tay “The Terminator” (Kẻ hủy diệt) và sau đó là “Aliens” (Người ngoài hành tinh). Cameron là đạo diễn của hai trong ba bộ phim có doanh thu cao nhất lịch sử điện ảnh thế giới. “Avatar” (số một) và “Titanic” (số ba).
Giữa Tháng Mười Hai 2022, Disney sẽ phát hành “Avatar: The Way of Water”. Đây là bộ phim đầu tiên do Cameron đạo diễn sau 13 năm và là bộ phim đầu tiên trong bốn phần tiếp theo của “Avatar” đã được lên kế hoạch. “Bộ phim nói về gia đình, nhiều nhân vật chính của phần đầu tiên sẽ trở lại, nhưng lớn tuổi hơn và có con cái để chăm sóc. Hai nhân vật chính vẫn là chiến binh, những người biết chớp lấy cơ hội và không hề sợ hãi. Họ biết sẽ phải làm gì khi có con và cuộc chiến của họ vẫn hoành tráng. Bản năng của họ là không sợ hãi và dám làm những điều tưởng như điên rồ. Ví dụ, nhảy ra khỏi vách đá, bổ nhào ném bom vào giữa chiến xa của kẻ thù!” – Cameron nói.
Sigourney Weaver, nữ diễn viên đóng vai chính nhà khoa học trong “Avatar” nay trở lại trong “The Way of Water” nhận xét: “Sự tương đồng giữa cuộc đời của đạo diễn và cuộc đời của các nhân vật không phải là ngẫu nhiên. Jim yêu gia đình mình rất nhiều, và tôi cảm nhận được tình yêu đó trong bộ phim mới. Đây đích thực là một bộ phim mang tính cá nhân như ông nói”.
Bản gốc “Avatar” (một bộ phim màu sắc rực rỡ lấy bối cảnh năm 2154 kể về một cựu thủy quân lục chiến phải lòng một công chúa màu xanh, cao 9 feet trên mặt trăng ngoại lai Pandora, nơi đang bị kẻ thù xâm lược và tước đoạt tài nguyên thiên nhiên) đòi hỏi sử dụng hàng tá công nghệ mới, từ những chiếc máy quay phim cho đến hiệu ứng kỹ thuật số cần có để biến các diễn viên con người thành những sinh vật hoạt hình theo diện mạo và ngôn ngữ của họ.
“Đối với The Way of Water – Cameron nói – Chúng tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Trước hết là những chiếc máy ảnh mới có thể chụp dưới nước và một hệ thống chụp chuyển động có thể chụp ảnh rời từ trên và dưới nước rồi tích hợp chúng thành một hình ảnh ảo thống nhất. Sau đó dùng các thuật toán mới, AI mới, để chuyển những gì chụp được thành những gì khán giả thấy”.
Tại Wellington, New Zealand, nơi Cameron hoàn thành bộ phim, ông cho khách xem một cảnh quay hiệu ứng đánh số 405. “Điều đó có nghĩa là đã có 405 phiên bản thử nghiệm trước khi nó hoàn thành” – ông nói. Cameron đã chuẩn bị cho “Avatar” mới từ năm 2013; nhưng đến Tháng Chín ông vẫn chưa kết thúc sau nhiều lần gia hạn. Làm “The Way of Water” cũng rất tốn kém. Cameron thông báo với hãng phim “bộ phim sẽ đại diện cho một thương vụ tồi tệ nhất trong lịch sử điện ảnh nếu thất bại”.
“Để có lợi nhuận, “The Way of Water” phải đoạt doanh thu cao thứ ba hoặc thứ tư trong lịch sử điện ảnh. Đó là ngưỡng tối thiểu để hòa vốn” – ông nhấn mạnh. “Tôi thích khó khăn. Tôi bị thu hút bởi khó khăn. Khó khăn là một thứ nam châm khó cưỡng đối với tôi. Tôi lao vào khó khăn. Có rất nhiều nhà làm phim thông minh, có năng khiếu, thực sự tài năng nhưng không thể làm được những điều khó khăn. Đó chính là lợi thế của tôi”.
Cameron và người vợ thứ năm, Suzy Amis Cameron hiện sống quanh năm ở New Zealand, nơi họ sở hữu một trang trại rộng 5,000 mẫu Anh nằm tại phía Đông thành phố Wellington từ năm 2011 với một bên là đại dương, một bên là hồ, xa xa là núi. Họ trồng cây gai dầu và rau hữu cơ. Có lúc Cameron cố thử nghiệm một dự án nông nghiệp, lấy 25 mẫu cây và trồng xen kẽ giữa chúng, tạo ra 143 loài trái cây từ táo, lê đến quả mọng khác nhau. Nhưng kết quả không khả thi về mặt thương mại. Vì vậy, ông dừng lại ở giới hạn “người làm vườn gia đình”, nơi khách tham quan có thể lang thang và ăn uống rau trái tươi giống như thời Eden.
Ở tuổi 68, Cameron dậy lúc 4g45 sáng, thường kickbox vào buổi sáng và đi qua lại giữa trang trại gia đình và ngôi nhà nhỏ khiêm tốn ở trung tâm Wellington, một thành phố hạng trung đầy gió ở cuối phía Nam của Đảo Bắc, New Zealand, nơi Peter Jackson, giám đốc Công ty hiệu ứng kỹ thuật số Wētā FX đặt trụ sở chính của công ty.
Cameron thường làm việc tại hãng phim Park Road Post Production, một trong những cơ sở của Jackson và là văn phòng cũ của ông. Giống như bộ ba phim “Lord of the Rings” (Chúa tể những chiếc nhẫn) do Jackson đạo diễn trước đó, “Avatar” là một mảng kinh doanh lớn của chính phủ New Zealand, nhưng gây tranh cãi với người dân sở tại, Cameron biện minh: “Cứ mỗi triệu đôla nhận được chúng tôi lại mang về số tiền lớn hơn cho nền kinh tế. Vì vậy, chính phủ New Zealand cần giải thích cho những người dân bình thường biết. Nếu họ không làm chúng tôi sẽ làm!”.
Từ một tài xế xe tải
Cameron tự hào đã được làm việc cật lực để cho ra “Terminator 2: Judgment Day”, “True Lies” và “Titanic”, đều nằm trong số những bộ phim tốn kém nhất từng được thực hiện tại thời điểm phát hành. Ông cũng thừa nhận đây là áp lực vì điều đầu tiên mọi người nói về bộ phim sắp ra mắt của ông là nó có thể mang về lợi nhuận khi chi phi quá cao. Ông bộc bạch: “Nếu hãng phim đồng ý chi cả tỷ đôla và cho rằng đó là một khoản đầu tư tốt, tại sao chúng ta không làm nó?”. Đến nay, tất cả các phim của Cameron đều hái ra tiền, trong đó có nhiều phim thành công ngoạn mục.
Cameron (bắt đầu kiếm sống từ Ontario, Canada rồi mới đến Orange County, California) luôn là kiểu người tự tin trước công việc của mình. Yêu khoa học từ lúc còn bé, ông tự nhận mình “khác biệt và rất vui vì được khác biệt”. Khi đang làm tài xế xe tải ở độ tuổi 20, Cameron quyết định trở thành một nhà làm phim, và tự học cách làm nó. Ông đi đến thư viện Đại học USC, nơi thường tổ chức chương trình làm phim để tìm một luận văn dài 300 trang của ai đó về phương pháp in quang học.
Sau khi xem sơ qua ông nghĩ mình có thể làm được. Ông photocopy toàn bộ 300 trang và sau đó miệt mài nghiên cứu tuần này qua tuần khác, trong khoảng sáu tháng. Vừa lái xe tải kiếm sống ông vừa nghĩ đến quy trình natri, màn hình xanh, in quang học, nhũ tương, thấu kính, kỹ thuật quay phim… “Về cơ bản, tôi đã tự học đại học về hiệu ứng hình ảnh và quay phim khi đang lái xe tải” – ông nhớ lại. Phần còn lại của câu chuyện là “truyền thuyết Hollywood”: Cameron được thuê bởi bậc thầy làm phim Roger Corman, người đã giúp cho nhiều người vào nghề, từ Francis Ford Coppola đến Martin Scorsese. Ông được giao công việc sản xuất mô hình và thiết kế sản xuất.
Ý tưởng cho “Kẻ hủy diệt” đến với Cameron trong một giấc mơ. Bộ phim thứ 2 “Aliens” cũng thế. “Avatar” cũng vậy. Nó đến với Cameron khi ông đang ngủ. “Tôi mơ thấy một khu rừng phát quang sinh học với những cái cây trông giống như đèn sợi quang và dòng sông phát ra các hạt sáng sinh học, rồi một loại rêu tím trên mặt đất sáng lên khi bạn đi trên đó. Và những loại thằn lằn trông không giống lắm cho đến khi chúng cất cánh rồi biến thành những chiếc quạt quay giống những chiếc frisbee sống và đáp xuống một thứ gì đó. Tất cả chỉ là trong giấc mơ. Tôi thức dậy cực kỳ phấn khích và vẽ nó ra”.
Chính các bản vẽ này đã cứu Cameron thoát khỏi khoảng 10 vụ kiện sau khi “Avatar” công chiếu. Ông nói: “Bất kỳ bộ phim thành công nào cũng đều bị một số người nghĩ rằng bạn đã ăn cắp ý tưởng của họ. Khi có 10 hoặc 11 người làm như thế tôi đã chỉ vào bức vẽ mà tôi đã vẽ năm 19 tuổi từ giấc mơ lúc còn học tại Fullerton Junior College, và nói với họ: Thấy chưa? Thấy những cái cây phát sáng này chưa? Hãy xem con thằn lằn phát sáng quay xung quanh, chúng có màu cam không? Có thấy rêu tím không? Sau đó, tất cả kiện cáo được rút lại”.
Zoe Saldaña, người đóng vai chính trong bộ phim Avatar đầu tiên, trở lại với “The Way of Water”, đã chỉ ra cách tiếp cận tương đối độc đáo của Cameron ở Hollywood hiện đại: “Thương hiệu Marvel được xây dựng bởi hàng chục họa sĩ truyện tranh, nhà văn và đạo diễn, những người làm việc cùng nhau để tạo ra những câu chuyện. Ngược lại, Avatar là kết quả tầm nhìn của một người đàn ông duy nhất. Nếu không có bộ não kiệt xuất của Jim, tất cả sẽ sụp đổ” – dẫn lại từ GQ.