Mới đây, nhà đấu giá lẫy lừng thế giới Sotheby mở cửa phòng triển lãm mới bằng cuộc đấu giá và bán bức tranh đầu tiên tại New York, Hoa Kỳ. Đó cũng là phẩm vật cao giá nhất từng rao bán được của nhà đấu giá này.
Giá cả “Portrait of Elisabeth Lederer” của Gustav Klimt lên đến $236.4 triệu, trở thành bức tranh đương đại đắt giá nhất; chỉ trong vòng 20 phút rao bán, bức danh họa có chủ mới. Khách tham dự xuýt xoa và vỗ tay rầm trời. Xuýt xoa vì giá cả và vỗ tay để chúc mừng chủ nhân mới. Hình như chủ nhân mới là một quý tộc giàu có từ xứ dầu thô Ả Rập.
Bức họa đắt giá kia là hình ảnh của cô gái trong gia tộc Lederer, người cha đã mướn họa sĩ Klimt vẽ trong giai đoạn cuối đời của ông họa sĩ. Chuyện kể rằng bức tranh “thoát nạn” nhiều lần mà sống sót đến ngày nay. Lần đầu trong trận hỏa hoạn tại Immendorf Castle, Áo khi bị tách rời khỏi bộ sưu tập. Lần thứ nhì, khi quân đội Nazi chiếm Áo năm 1938, lục soát và cướp của từ các nhà giàu; biệt thự của gia tộc Lederer cũng chịu chung số phận, mất hết của cải. Riêng bức tranh này nhờ [bị] quân Nazi chê là “quá Do Thái”, không đáng công [ăn cướp] rồi để lại nên thoát nạn.
Portrait of Elisabeth Lederer là một bức tranh cao sáu bộ Anh, được thực hiện trong thời gian 1914-1916. Họa sĩ Gustav Klimt vẽ truyền thần cô gái trẻ trong kiểu trang phục hoàng hậu vùng Đông Á, chung quanh là cổ ngoạn trưng bày trong một gia đình sang cả bậc nhất Âu Châu.
Chuyện kể rằng để thoát sự truy diệt của Nazi, Elisabeth Lederer đã nói dối rằng mình là con gái của ông họa sĩ (mất năm 1918), chưng bằng chứng [giả] và không phải người Do Thái nên thoát nạn. Bà ấy sống tại Vienna cho đến khi qua đời năm 1944.
Chủ nhân cũ của bức danh dọa là ông Leonard A. Lauder, cùng người em Ronald Lauder, kế nghiệp công ty mỹ phẩm Estee Lauder từ cha mẹ.
Ông Lauder thành lập Neue Galerie, một viện bảo tàng nhỏ xíu tại Fifth Ave và 86th Street (midtown Manhattan, New York). Viện bảo tàng này lưu trữ những tác phẩm nghệ thuật riêng của Đức và Áo. Ông ấy là một nhà sưu tập tranh ảnh, từng tài trợ nhiều tổ chức nghệ thuật cũng như bảo tàng viện qua việc trao tặng các họa phẩm lẫy lừng của thế giới để bá tánh có cơ hội nhìn ngắm. Ông Leonard Lauder vừa qua đời tháng Sáu năm nay (nên con cháu đem bán danh họa thay vì hiến tặng viện bảo tàng do người cha thành lập?). Tiếc quá, người đẹp trong tranh Elisabeth theo người mới về tận Trung Đông, bá tánh không còn được nhìn ngắm bức danh họa kia nữa!
Hồi nẳm, phe ta có lần xếp hàng cả tiếng trước Neue Galerie để được xem bộ tranh Klimt triển lãm ở đó. Ôi chao là mãn nhãn. Hình ảnh chụp lại chẳng ăn thua chi! Danh họa “The Kiss” phe ta được xem lần đầu ở Belvedere bên Áo. Lần thứ nhì xem lại ở New York, ấn tượng về bức tranh ấy vẫn còn nguyên trong đầu cho đến bây giờ!
Lan man về tranh, về trị giá, về chủ nhân và người mẫu mà không nhắc đến ông họa sĩ lẫy lừng thì quả là thiếu sót lắm lắm. Ông Gustav Klimt người Áo, cùng một nhóm hoạ sĩ trẻ đã khởi xướng phong trào Vienna Secession năm 1897, “thoát ly” khuôn khổ nghệ thuật định sẵn truyền thống. Họ theo đường hướng mới, sáng tác và tự trưng bày tác phẩm; một trào lưu nghệ thuật tân thời (của Áo) thủa ấy.
Lẫy lừng nhất là bức “The Kiss” (1907-1908) về nghệ thuật, về ấn tượng và về trị giá. Ông Klimt, ngoài sơn màu, đã dát bạc, vàng lá và bạch kim để “vẽ” tranh theo khuynh hướng nghệ thuật Byzantine, hòa lẫn cung cách vẽ tranh cũ và mới. Trong “The Kiss” là đôi tình nhân trong tư thế âu yếm. Người đàn ông cúi đầu trong khi người đàn bà ngửa mặt, khép mắt, quỳ gối ở tư thế ngại ngùng chờ đợi… Người đương thời, đầu thế kỷ XX, cho rằng bức tranh khiêu gợi quá dù cả hai đều có quần áo kín mít trên mình. Xa hơn là ý tưởng nam nữ “bất bình đẳng,” người nam “cho” và người nữ “nhận” (?). Khách thưởng lãm kẻ khen người chê lắm lời nhưng thủy chung, bức tranh vẫn được chính phủ Áo mua về chưng tại viện bảo tàng quốc gia, Belvedere Palace. Bức tranh này tất nhiên là vô giá vì không bị rao bán nhưng vẫn có người bạo gan gán cho trị giá mấy trăm triệu khi so sánh với các bức tranh Klimt khác.
Khi ngắm nhìn The Kiss, phe ta thấy người đàn bà trong tranh có khuôn mặt giống bà Adele quá xá, cũng cái mũi thanh tú, nét lông mày vòng cung… như những bức truyền thần về phụ nữ này, Adele Bloch-Bauer I (“Woman in Gold”) và II.
Trong bức Adele I (thuộc về Neue Galleries sau khi tài phiệt mỹ phẩm Ronald Lauder mua đấu giá năm 2006 rồi đem chưng tại viện bảo tàng nhà), người mẫu sắc sảo, sang cả và diêm dúa; ở bức Adele II vẽ năm 1912, người mẫu mang vẻ hiền thục, nhu mì như thánh nữ. Hình như cái áo đã làm nên ‘nhà tu’? Hay màu đỏ dữ dội của đôi môi? Màu vàng rực rỡ của tấm áo?
Họa sĩ Klimt đã vẽ bức tranh Adele I ròng rã suốt ba năm, người mẫu là bà Adele, vợ tài phiệt Ferdinand Bloch-Bauer (buôn bán đường) tại Áo. Bức họa được vẽ bằng những đường nét phức tạp rối rắm, họa sĩ đã dát vàng làm nền và làm màu áo của người mẫu, bàn tay nàng với những ngón đan nhau… (nàng che một khuyết tật ở ngón tay), và mắt cũng nhìn xa xôi như Mona Lisa thủa trước. Bức tranh được hoàn tất năm 1907 khi người mẫu tròn 25 tuổi.
Những nhà phê bình tranh tọc mạch tại Vienna ngày ấy đã thì thào với nhau rằng bức tranh được vẽ bằng… trái tim của họa sĩ [nổi tiếng đào hoa lắm người tình] và người mẫu. Bà Adele chết năm 1925, ở tuổi 43. Họa sĩ Klimt qua đời năm 1918, ông được thân nhân bà Adele nhớ đến qua hình ảnh một người chỉ mặc áo khoác dài đến sàn nhà mà hổng mặc cái chi khác!
Người mẫu đẹp, họa sĩ [vẽ] đẹp và ngày nay người trần gian có một bức tranh tuyệt vời để nhìn ngắm… Nhưng cũng như tất cả mọi thứ đẹp trên cõi đời, bức tranh truân chuyên không kém nàng Thúy Kiều. Bà Adele trước khi chết có dặn dò trong di chúc là bà ta “ao ước” bức tranh này, bức tranh Adele II, bức “Beechwood” (1903), “Apple Tree I” (1911) và “Houses in Unterach on Lake Atter” (1916); cả năm bức tranh do họa sĩ Klimt vẽ (một phần gia sản của ông bà) đều được tặng cho (quốc gia) Áo sau khi ông chồng qua đời.
Năm 1938, khi quân đội Nazi chia lại biên giới của nước Áo, ông Bloch-Bauer ù té chạy trốn bạo quyền, bỏ của chạy lấy người, chạy tuốt qua nước trung lập Thụy Sĩ. Nazi … ở lại tóm trọn của cải, đưa ba bức tranh vào phòng Austrian Gallery, bán hai bức tranh cùng những tài sản khác. Những người đầu sỏ của Nazi như Hitler, Goring, Hedrick… chia nhau của ăn cướp. Ông Bloch-Bauer… hổng thích chính phủ Nazi tại Áo thủa ấy nên viết lại di chúc, trao tặng của cải cho ba người cháu vì ông bà không có con cái, ông Bloch-Bauer qua đời tháng 11, năm 1945 tại Thụy Sĩ. Bà Maria Altman là một trong ba người thừa kế còn sống đến ngày nay. Trong những năm chiến tranh, bà Altman cùng chồng cũng bỏ nước Áo, vượt trùng dương chạy một mạch sang thành phố Thiên Thần (Los Angeles) và ở lại đến bây giờ.
Sau thế chiến thứ nhì, bà Altman và gia quyến tìm lại được một ít tài sản cũ, nhưng chính phủ Áo bảo rằng những bức tranh đã được tặng cho nước Áo, người thừa kế hổng còn sơ múi chi trừ khi tìm được chứng cớ giấy tờ rõ ràng! Thế là người ta đổ đi tìm, và một nhà báo đã tìm được những tài liệu cũ, kể cả di chúc của bà Adele. Trong tờ di chúc này, bà Adele chỉ “ước ao” (dịch từ chữ “wish” bạc triệu) chứ không đòi hỏi rằng những bức tranh này được tặng cho nước Áo! Thế là gia quyến ông bà Bloch-Bauer hè nhau đi kiện chính phủ Áo, kiện đến ba tòa quan lớn tại Hoa Kỳ. Kể ra làm công dân của một nước độc lập nặng ký cũng có thớ, phải không bạn ta?
Tối Cao Pháp Viện của Hoa Kỳ phán xử rằng thân quyến của ông bà Bloch-Bauer có thể kiện tại Hoa Kỳ, hổng phải lặn lội qua Áo làm chi, và chính phủ Áo lật đật qua Mỹ hầu tòa. Một tòa hòa giải (arbitration tribunal, một nhóm chuyên gia làm trọng tài xét xử những dữ kiện và cho ý kiến) tại Áo xử phần thắng về phía thân nhân ông bà Bloch-Bauer, thế là những bức tranh của Klimt được trao lại cho những người thừa kế! Những danh họa ấy lần lượt được rao bán, mỗi ngày một đắt giá. Người mua sưu tầm để ngó và cũng để… đầu tư. Và người thưởng ngoạn rỗng túi như phe ta đây chỉ trông mong vào những dịp triển lãm mà nhìn ngắm bản chính cho mãn nhãn!
Bức Adele II được gia tộc bà Adele Bloch-Bauer bán cho tài tử/diễn giả Oprah Winfrey năm 2006; mười năm sau, bà Winfrey bán lại cho một tài phiệt Hoa Lục. Thế là bá tánh hết đường nhìn ngắm trừ khi ông tài phiệt ẩn danh nọ chịu mở lòng cho mượn để viện bảo tàng nào đó đem trưng bày. Ta tha hồ mơ ước!




























