Mẹ tôi, những nải chuối, và người sĩ quan quân đội Mỹ

(Hình minh họa: Le Hoang/Unsplash)

Mẹ tôi là một người rất biết tính toán trong việc chi tiêu nhưng với số tiền lương ít ỏi của bố tôi – Trung sĩ quân đội VNCH vào những năm của thập niên 60, 70 tại Sài Gòn.

Với món tiền lương hàng tháng của bố tôi không thể nào trang trải cho cuộc sống dù ở mức tối thiểu cho một gia đình với bảy đứa con đang tuổi ăn học, mà ông nội tôi lại bệnh ốm rề rề.

Trong khó khăn, thiếu thốn triền miên đó, mẹ tôi nhờ một người quen biết chỉ dẫn lên chợ Cầu Ông Lãnh lấy chuối từ các vựa rồi đem về bán lẻ trên lề đường chung quanh chợ Chí Hoà, gần nơi gia đình tôi sinh sống.

Trong suốt hơn 12 năm tần tảo bán buôn kiếm sống đó, mẹ con chúng tôi có biết bao nhiêu chuyện vui, chuyện buồn để nhớ, để kể lại cho cho con cháu, bạn bè, họ hàng nghe vào những lúc thư nhàn. Một dạng thức tìm vui, hoài nhớ về quá khứ nhọc mệt, thấm ướt mồ hôi, nhưng đôi lần vẫn có những niềm vui rất đẹp, đáng nhớ từ những giao tiếp với những người mà mình quen biết trong công việc.

Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1967, khi tôi vừa bước vào đại học được vài năm, mẹ tôi vẫn còn bán chuối ở trước cửa tiệm vàng Đồng Vinh và tiệm gạo Thanh Sơn trên đường Tô Hiến Thành, đối diện mặt trước của chợ Chí Hoà. Sau này, khi chợ mở rộng hơn, mặt chính của chợ được chuyển sang phía đường Lê Văn Duyệt (Cách Mạng Tháng 8 ngày nay ), mẹ tôi cũng chuyển việc buôn bán đến hướng này, sát bên hộp thư bưu điện ở góc chợ.

Thời gian mà mẹ tôi còn bán chuối tại đường Tô Hiến Thành, chúng tôi đã có một kỷ niệm đáng nhớ với một người khách mua chuối khá đặc biệt và tốt bụng. Ông ta là sĩ quan, cấp đại uý trong quân đội Mỹ mà chúng tôi hoàn toàn không biết tên. Câu chuyện giao tiếp buôn bán chuối giữa ông và mẹ con chúng tôi rất đơn giản, có tí chút buồn cười nhưng lại ghi sâu vào tâm khảm của chúng tôi một cảm giác rất xúc động.

Sau này, vào những lúc nhàn rỗi chúng tôi lại có dịp nhắc lại cho nhau nghe về ông khách mua chuối thân thiện, dễ mến đó với những nụ cười thích thú. Đến nay, câu chuyện thấm đậm tình người đó, dù đã đi vào vào dĩ vãng rất lâu nhưng chúng tôi vẫn không quên.

Đúng như vậy, đã gần 50 năm rồi, thời cuộc đã đổi thay rất nhiều, con người và cuộc sống của gia đình chúng tôi (và chắc chắn cả với người sĩ quan Hoa kỳ mua chuối tốt lòng đó ) cũng đã trải qua biết bao nhiêu dâu bể!  Tôi không biết người sĩ quan Mỹ đó ra sao, còn hay mất, nhưng mẹ tôi thì đã mất từ lâu ! Còn tôi, người sinh viên với cái vốn Anh ngữ nghèo nàn nhưng đã làm cho ông cảm động, thì nay vẫn hiện diện trong nhân gian dưới bóng dáng lụ khụ của một ông già mái tóc bạc màu xấp xỉ 80!

Dù thời gian đã được đẩy quá sâu vào dĩ vãng nhưng tôi vẫn còn nhớ như in về câu chuyện đơn sơ, nhưng đậm sắc tình người, hôm nay ngồi viết ra như một ký ức đẹp của mình.

Buổi tối hôm đó, khi tôi từ trường học về nhà, vừa dựng xong chiếc xe, chưa kịp bước qua ngưỡng cửa, mẹ tôi, với khuôn mặt vui mừng, lấy trong túi ra một tờ giấy bạc 1 dollar Mỹ, đưa tận tay tôi và nói:

-Con thử xem có phải là tiền Mỹ hay không?  Bà Sáu bán rau bên cạnh cho biết nó có giá gấp cả trăm đồng tiền VN đó! Không biết có thật như lời bà ta nói không nhỉ?

Tôi cầm tờ giấy bạc, lật qua lật lại xem, với chút ngạc nhiên, tôi hỏi mẹ:

-Một dollar, nhưng ở đâu mà mẹ có vậy? Con cũng không biết chính xác nó giá bao nhiêu, nhưng có lẽ trên thị trường chợ đen nó khoảng hơn 400 đồng thì phải? (tôi chỉ nhớ mang máng nhờ vài người bạn đi du học cho biết !)

Mẹ cầm lại tờ giấy bạc trên tay tôi, xoay qua, xoay lại ra vẻ tò mò khi biết về giá trị của nó rồi chậm rãi nói với tôi:

-Đúng là mình bán cho người ta mắc quá! Với tờ giấy bạc này, chính ra mẹ phải đưa cho người ta 10 nải chuối mới đúng!

Cuối cùng qua lời kể của mẹ, tôi mới hiểu rõ sự việc. Sáng hôm đó vào khoảng gần trưa, thình lình có một người lính Mỹ, lái chiếc xe dip dừng ngay trước thảm bán chuối của mẹ. Ông ta vẫn ngồi trên tay lái, đưa tay chỉ vào những nải chuối của mẹ tôi bầy trên tấm bạt ở lề đường, nói với mẹ tôi câu gì đó mà mẹ tôi hoàn toàn không hiểu. Nhưng mẹ tôi đoán biết là ông ta muốn mua chuối. Có lẽ vì sợ hay ngượng ngùng vì chưa bao giờ tiếp xúc với người ngoại quốc nên mẹ tôi cũng chỉ ngước mắt nhìn ông ta, lắc đầu không hiểu! Hình như cảm thông với vẻ “ngớ ngẩn“ của bà bán hàng nhà quê, ông Mỹ bước xuống xe, đưa tay chỉ trỏ rồi cầm lấy một nải chuối to và đẹp nhất trên thảm chuối, rồi móc túi đưa cho mẹ tôi một tờ tiền Mỹ.

(Hình minh họa: Daniele Franchi/Unsplash)

Dù biết là ông ta trả tiền cho nải chuối, nhưng mẹ tôi cũng chẳng biết giá trị tờ giấy bạc mà ông ta đưa cho mình là bao nhiêu, có chính xác hay có thể tiêu dùng được không! Mẹ tôi nhìn ông Mỹ, với tí chút đắn đo rồi lắc đầu ra vẻ không hiểu, đưa trả lại ông ta tờ giấy bạc và nói (dĩ nhiên bằng tiếng Việt):

-Tôi không biết gì về đồng tiền này. Ông có tiền Việt Nam không trả cho tôi đi!

Dĩ nhiên ông Mỹ cũng chẳng hiểu mẹ tôi nói gì ! Có lẽ ông ta tưởng mẹ tôi không muốn bán. Với tí chút lưỡng lự, hơi chau mày, ông ta đang định bỏ nải chuối xuống không mua nữa. Đúng lúc đó bà Sáu bán rau bên cạnh nói to với mẹ tôi:

-Tờ tiền Mỹ đó, giá trị gấp cả trăm tiền Việt Nam, lời nhiều như vậy mà bà không bán cho người ta còn chờ gì nữa hả?!

Nghe bà bạn nói, mẹ tôi yên tâm không còn nghi ngờ đắn đo gì nữa, cầm lại tờ giấy bạc rồi gật đầu lia lịa, miệng lập đi lập lại những câu cảm ơn (dĩ nhiên bằng tiếng Việt !). Ông Mỹ quay nhìn bà Sáu ra vẻ cám ơn rồi có vẻ thích thú vì chuyện mua bán đã xong. Trước khi xách nải chuối quay ra xe, ông ta còn gật đầu nói với mẹ tôi một tràng tiếng Mỹ mà mẹ tôi cũng chỉ ngơ ngác nhìn theo cho đến khi chiếc xe lăn bánh.

Câu chuyện bán nải chuối giá gấp cả chục lần cho ông lính Mỹ (mẹ tôi thường nói về ông ta như vậy mỗi khi nhắc đến chuyện buôn bán này với gia đình, anh em chúng tôi) chỉ có vậy, nó sẽ qua đi như với hàng ngàn người khách mua chuối khác, chẳng có gì để nhớ.

Nhưng khoảng 3 ngày sau, buổi tối khi tôi đi học về, lại với vẻ vui mừng, mẹ đưa cho tôi xem một tờ tiền Mỹ, nhưng lần này không phải là 1 tờ đôla mà là tờ 2 đôla! Với chút ngạc nhiên tôi nhìn mẹ, hỏi:

-Ông Mỹ lại đến mua chuối của mẹ nữa phải không? Có lẽ lần này ông ta mua tất cả lô chuối của mẹ nên mới trả cho mẹ tới 2 đôla, đúng không?

Với giọng nói nhè nhẹ hơi buồn, mang theo cảm giác ân hận, mẹ ngập ngừng nói với tôi:

-Nếu ông ta lấy cả hàng chuối của mẹ, có lẽ mẹ đỡ áy náy hơn! Đằng này ông ta cũng chỉ xách lấy có một nải rồi quay ra xe! Mẹ cũng đâu có biết tờ giấy bạc ông ta đưa cho mẹ là một hay hai., nhưng thấy kỳ kỳ vì lần trước đã bán cho người ta quá mắc nên mẹ vội vàng xách lấy 3 nải chuối nữa đem ra tận xe dúi vào tay ông ta. Ông ta xua tay nhất định không chịu nhận, miệng cười cười và nói một tràng tiếng Mỹ… Mẹ chẳng hiểu mô tê gì cả!

Tôi vội ngắt lời mẹ:

-Chắc người ta thấy mẹ đem cả đống chuối lên chiếc xe, quá sợ mà từ chối đó. Theo con, nếu mẹ chỉ mang cho ông ta thêm một nải, có lẽ ông ta sẽ vui lòng mà nhận đó.

Nghe tôi nói vậy mẹ vội vàng ngắt lời:

-Đúng! Con nói đúng! Khi thấy mẹ đang định bỏ cả 3 nải chuối vào xe, ông ta chỉ cầm lấy một nải rồi xua tay lia lịa và nói một tràng tiếng Mỹ. Mẹ không hiểu nhưng cũng đoán ông ta cám ơn và chỉ vui lòng nhận thêm một nải mà thôi. Khi ông ta lái xe đi, bà Sáu xem lại tờ giấy bạc và cho mẹ biết đó là tờ 2 đôla, chứ không phài là 1 đôla như lần trước.

Nói xong, mẹ thở dài ra vẻ áy náy vì bán cho người ta quá mắc:

-Đồng tiền Mỹ có giá trị to thật! 2 đôla, tính ra hơn 800 đồng Vietnam, có lẽ người ta mua được cả xe ba gác chuối mới đúng!

Mẹ chép miệng, buông một câu:

-Tội nghiệp ông ta thật, chẳng biết lương tháng có bao nhiều mà tiêu hoang phí như vậy nhỉ?

Nghe mẹ nói, tôi cười to vì vẻ thật thà đến nỗi ngờ nghệch đáng thương của mẹ. Tôi nói:

-Mẹ ơi! Mẹ nghĩ vớ vẩn rồi! Một tháng lương của ông ta có thể mua được một căn nhà khang trang ở Vietnam chứ nói gì đến cái đống chuối “cỏ rác“ của mẹ . Thôi, chuyện đó xin mẹ khỏi lo cho mệt! Họ trả tiền cho mẹ thì mẹ cứ lấy, nói với người ta vài lời cám ơn thế là xong! Rắc rối , lo buồn làm gì cho khổ hả mẹ?!

Rồi, suốt gần hai tháng trời sau đó, cứ cách khoảng ba, bốn ngày, mỗi buổi chiều tối khi đi học về nhà, tôi lại được nghe được những câu chuyện vui bán chuối cho ông lính Mỹ của mẹ tôi.

Việc mua bán đã trở nên quen thuộc và trôi chảy. Ông lính Mỹ chẳng cần phải chỉ chỏ gì vào đống chuối của mẹ tôi như lần đầu tiên, nhưng ông vẫn nhận được 2 nải chuối to nhất, ngon nhất mà mẹ đã lựa chọn, để riêng ra, không bán cho ai từ “núi“ chuối của mẹ. Đã thế hai nải chuối còn được mẹ tôi thắt dây lạt vào cuống để dễ dàng mang xách mà không lo bị nhựa chuối dính vào tay. Còn mẹ tôi thì cũng hả hê, không thắc mắc khi nhận từ tay ông ta tờ giấy 2 đồng tiền Mỹ rồi cúi đầu nói vài câu cám ơn (dĩ nhiên bằng tiếng Việt). Ông lính Mỹ, đưa tiền, nhận 2 nải chuối, cũng chẳng cần biết người bán nói gì. Nhưng lần nào cũng vậy, ông ta cũng xả ra một tràng tiếng Mỹ kèm theo nụ cười thích thú, dù biết chắc chắn người đối diện cũng mù tịt, chẳng hiểu mình nói gì! Tóm lại giữa mẹ tôi – người bán và ông lính Mỹ, – người mua, ai nói thì người ấy nghe nhưng mọi việc “giao dịch“ vẫn trôi chảy trong vui vẻ!

Rồi một hôm khác, vào buổi chiều, tôi được nghỉ học 2 giờ sau cùng vì giáo sư bận không đến dạy học. Việc thi cử cuối năm cũng tạm xong, không biết làm gì nên tôi đạp xe tạt vào chỗ mẹ bán hàng coi có gì để giúp đỡ. Từ xa tôi nhìn thấy một chiếc xe díp đậu bên đường trước chỗ bán chuối của mẹ. Một người quân nhân Mỹ to lớn và một người lính Việt nam, hai người đứng đối diện với mẹ tôi, hình như đang có điều gì chưa thông suốt giữ mẹ tôi và họ thì phải?  Khi tôi vừa đến, chưa kịp dựng chiếc xe. Nhìn thấy tôi, mẹ mừng ra mặt, trong tay mẹ cầm tờ giấy 20  đôla đưa ra phía tôi, mẹ chau mắt phân bua:

-Con đến đây mau giúp mẹ một tí! Qua chú thông ngôn này thì hình như ông Mỹ sẽ phải đi xa, hôm nay ông ta không mua chuối mà đến từ giã mẹ mà ông ta còn cho mẹ món tiền quá to này. Mẹ thấy kỳ cục quá nên không muốn nhận!

-Nghe mẹ tôi nói, người thông dịch viên quay ra nhìn tôi và hỏi mẹ:

-Đó là con trai của thím sao?

-Vâng , con trai lớn của tôi đó, cháu nó đang là sinh viên .

Người thông dịch quay sang người Mỹ nói với ông ta điều gì đó, rồi bước đến gần tôi, anh nói:

-Anh là thông dịch viên cho ông đại úy Mỹ này, người mà mấy tháng qua vẫn đến mua chuối của mẹ em. Ông ta rất quý mến sư ngay ngắn, chân thật của mẹ em, hôm nay ông ta đến đây cùng với anh không phải để mua chuối mà muốn từ giã mẹ em và tặng bà tí chút tiền làm quà. Sáng sớm ngày mai ông ta sẽ phải rời Sài Gòn ra miền Trung công tác. Chắc ông ta không còn dịp trở lại đây mua chuối của mẹ em như mấy tháng vừa rồi nữa. Anh đã nói rõ lý do với mẹ em, nhưng hình như bà vẫn áy náy và không muốn nhận món quà của ông ta.

Nói xong anh thông dịch hơi nhíu mày với tí lưỡng lự nhìn tôi, anh ta hỏi:

-Em là sinh viên, chắc cũng nói được tí chút tiếng Anh phải không ? Nếu được em cứ nói trực tiếp với ông ta vài câu cám ơn cho thân tình là được.

Chẳng cần câu trả lời của tôi, anh ta quay sang người sĩ quan Mỹ nói một tràng, tôi cố lắng nghe nhưng có lẽ âm thanh quá nhẹ và nhanh nên gần như chẳng biết anh ta nói gì! Nhưng tôi đoán anh ta đang giới thiệu về tôi với vị sĩ quan Mỹ.

Người sĩ quan Mỹ hướng về tôi gật đầu rồi thân thiện, bước đến gần tôi, ông ta nói rất rõ ràng và chậm rãi:

-Em là sinh viên hả? Có thể nói tiếng Anh với tôi được không?

Tôi hiểu rất chính xác lời nói của ông ta vì là những câu nói quá đơn sơ, căn bản nên trả lời:

-Vâng tôi đang là sinh viên của đại học Sài Gòn. Tôi sẽ cố gắng nếu ông nói chậm và không dùng những chữ khó! 

Người sĩ quan Mỹ, giơ tay vỗ nhẹ vai tôi, tỏ ra rất vui mừng nghe câu đối thoại rất sách vở của tôi:

-Thế là quá tốt rồi! Hôm nay tôi đến đây để giã biệt mẹ của em và muốn tặng bà tí tiền làm quà. Bà là một người rất tốt, rất chân thật đã làm tôi cảm động trong những lần tôi mua chuối của bà vừa qua. Ngày mai tôi sẽ rời xa Sài Gòn, không biết trong tương lai còn có dịp trở lại đây mua chuối của bà nữa hay không.

Nghe ông ta nói, tôi không dấu được cảm động với những lời tốt đẹp mà ông dành cho mẹ tôi. Dù vốn Anh ngữ yếu kém nhưng tôi cũng cố gắng nói những câu rất đơn giản diễn tả sự cảm ơn và áy náy của mẹ tôi trong suốt thời gian qua vì đã bán cho ông những nải chuối với giá đắt, gấp 10 lần giá thực của nó! Tôi cũng không quên nói cho ông nghe cái lẩm cẩm nực cười của mẹ tôi khi bà lo lắng cho sự hao hụt tiền lương của ông, chỉ vì sự hào phóng mà ông đã trả cho mẹ tôi mỗi khi mua chuối! Tôi có cảm tưởng, người sĩ quan Mỹ nghe những câu tiếng Anh vỡ bể của tôi, ông có chút thẫn thờ, cảm động khi nghe tôi nói những điều mà ông ta không bao giờ ngờ được. Với vẻ vui tươi lộ rõ trên khuôn mặt, ông Mỹ lại đưa tay lên vỗ nhẹ vài cái lên vai tôi, gật gù, chậm rãi nói:

-Em có một bà mẹ tuyệt vời! Một bà mẹ rất chân thật và đầy lòng nhân ái. Hãy biết thương yêu me nhé.

 ôi cám ơn ông ta, rồi quay sang mẹ, tôi lược thảo sơ sài sự việc cho mẹ tôi hiểu. Mẹ tôi cúi xuống xách lên hai nải chuối đã cột dây từ trước, ân cần đưa tận tay ông Mỹ. Nhưng ông ta xua tay, có ý không nhận và quay sang người thông dịch nói một tràng, xong quay sang mẹ tôi, anh nói:

-Ông ấy cám ơn thím rất nhiều, ngày mai ông ta phải đi miền Trung rất sớm nên không thể nhận món quà của thím được. Ông ta quý mến lòng ngay thẳng và chân tình của thím trong suốt hai tháng qua, hôm nay ông ta dành thời gian đến đây từ giã thím với tí tiền nhỏ nhoi giúp đỡ thím mà thôi. Thím cứ vui vẻ nhận cho người ta vui rồi nhờ cháu trai nói trực tiếp với ông ta vài lời cám ơn thế là họ vui lắm rồi.

Nói xong với mẹ tôi, người thông dịch quay sang vị sĩ quan Mỹ phân bua điều gì đó rồi đưa mắt nhìn tôi ra vẻ chờ đợi sự can đảm của tôi. Hiểu ý, tôi đến trước mặt người sĩ quan, cúi nhẹ đầu và cố gò nắn vài câu tiếng Anh rất căn bản diễn tả sự cảm ơn của mẹ con chúng tôi với lòng tốt và rất thân thiện của ông ta. Vị sĩ quan lại vỗ nhẹ lên vai tôi ra chiều thân thiết, chậm rãi ông ta nói:

-Chẳng có gì để đáng để nói đến chữ cám ơn cả. Em hãy chăm chỉ học hành và luôn luôn nhớ rằng em đang hạnh phúc vì có một người mẹ tuyệt vời đó .

Nói xong ông ta giơ ngón tay cái hướng lên trên trời, lắc lắc nhẹ. Khuôn mặt vui tươi gật gù ra chiều rất vui và vừa lòng với cuộc gặp mặt hôm nay. Rồi ông ta cùng với người thông dịch viên vẫy tay từ giã chúng tôi quay ra chỗ xe đậu. Mẹ con chúng tôi vẫn chưa hết ngơ ngác, đưa mắt nhìn theo họ đến khi cả hai người ngồi lên xe rời xa.

Có lẽ mọi chuyện đã chấm dứt khi chiếc xe của họ lăn bánh. Nhưng qua cánh cửa của chiếc xe díp quân sự, tôi thấy hai người họ không khởi động máy xe mà quay lại trao đổi với nhau điều gì đó. Khoảng vài ba phút sau, người thông dịch viên bỏ tay lái bước ra khỏi xe, tươi cười tiến gần đến chỗ mẹ con chúng tôi đang đứng, cầm một tờ giấy 50 đôla, đưa cho tôi và nói:

-Ông đại uý rất quý mến em, nên có chút quà tặng riêng cho em đó .

Ngạc nhiên đến thẫn thờ! Tôi bước lùi lại phía sau, đưa tay lên lắc nhẹ ra ý không dám nhận và nói với người thông dịch viên:

-Không! Không! Em không dám nhận và cũng chẳng có lý do nào nhận món quà quá lớn của ông ta cả. Với món quà 20 Dollars mà ông ta cho mẹ em đã là quá đủ, quá to, đã làm cho mẹ con em cảm động lắm rồi!

-Em à, với món quà năm, bẩy chục đôla chẳng có gì to lớn đối với người ta đâu. Em đừng có lo cho rắc rối. Hãy …..

Không để cho anh thông dịch viên nói tiếp, tôi lắc bàn tay, nhíu mắt nhìn người thông dịch viên, tôi ngắt lời anh:

-Với 70 đôla mà anh nói là không lớn sao? Anh có biết với món tiền đó, đổi ra tiền Việt, gia đình em có thể sống được mấy tháng trời! Nó nhiều hơn ba lần tháng lương trung sĩ của bố em trong quân đội đó!

Nghe tôi nói, người thông dịch viên có chút ngẩn ngơ. Anh ta quay sang người đại úy Mỹ nói một tràng. Ông sĩ quan Mỹ xuống xe và đến chỗ chúng tôi lúc nào mà tôi không biết. Khả năng Anh ngữ èo ọt của tôi không đủ cho tôi hiểu chính xác họ nói gì với nhau. Nhưng nhìn dạng điệu của hai người lúc nói chuyện, tôi đoán là người thông ngôn đã thông dịch trọn vẹn lý do từ chối của tôi cho ông Mỹ nghe. Có lẽ sự so sánh quá thực tế, pha chút chua cay của tôi giữa món tiền 70 đôla và đồng lương của bố tôi đã làm cho ông sĩ quan Mỹ cảm xúc, ngẩn ngơ. Ông chau mày chuyển mắt sang nhìn mẹ con chúng tôi với ánh nhìn khác lạ! Rồi hai người lại quay lại nói chuyện với nhau. Tôi cũng chẳng hiểu họ nói gì vì âm thanh quá nhanh và nhẹ. Cuối cùng, anh thông dịch viên quay sang chúng tôi với lời nói rất chậm rãi, rõ ràng:

-Ông đại uý rất cảm động và ngạc nhiên vì sự ngay thẳng và tự trọng của thím và chú em. Ông ta cho biết, với món tiền bé nhỏ đó chẳng là gì với ông ta cả. Nhưng ông ta biết chắc chắn sự giúp đỡ cho mẹ con thím là sự tiêu dùng rất chính đáng, không nhầm lẫn. Không những thế, nó còn mang đến cho ông ta một niềm vui, đó là ông ta vừa tìm thêm được một người Việt Nam mà ông ta qúi mến. Ông ta hứa nếu có dịp về Sài Gòn, ông sẽ tìm đến gặp và thăm mẹ con thím.

(Hình minh họa: ben-iwara/Unsplash

Nói xong người thông dịch viên thân thiện nắm nhẹ tay tôi, nói:

-Thôi vui vẻ nhận quà của người ta đi, đừng lằng nhằng làm mất thời gian và làm buồn lòng người ta nữa!

Nói xong anh nhét vội tờ giấy bạc và túi áo của tôi. Chẳng để ý đến thái độ ngẩn ngơ của chúng tôi, rồi hai người cùng lên xe, mở máy và chiếc xe lăn bánh.

Đúng như vậy, nhiều năm sau đó, mẹ tôi vẫn bán chuối ở đó, nhưng người sĩ quan Mỹ không bao giờ đến mua chuối của mẹ tôi nữa. Đôi khi trong những lúc rảnh rỗi khi ngồi chờ đợi lấy chưối ở chợ Cầu Ông Lãnh hay gặp những ngày chợ ế, không có người mua, tôi và mẹ vẫn thường nhắc đến người sĩ quan Mỹ tốt bụng đó.

Chúng tôi luôn cầu mong sự an toàn và may mắn đến với ông ta. Nhất là vào những thời điểm mà cuộc chiến tranh Việt Nam sôi động với những chiến trận kinh hoàng như Khe Sanh ( 1968), Mậu Thân ( 1968), Hạ Lào (1971 ) hay Mùa hè đỏ lửa, Cổ thành Quảng Trị (1972)…

Cuối cùng thì cuộc chiến tranh cũng chấm dứt vào Tháng Tư 1975. Khi đó tôi đã tốt nghiệp đại học, rồi được tuyển dụng đi dậy học tại đại học Cần Thơ. Rồi cũng như những người thanh niên khác, thời loạn tôi phải vào quân đội, tôi tưởng rằng cuộc đời của mình sẽ bước vào vòng xoáy của máu đạn, chiến tranh. Nhưng vị thần may mắn đã mỉm cười kéo tôi ra khỏi vũng lầy của binh đao, mà còn hơn thế nữa, tôi được sang Nhật bản tu nghiệp trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Rồi cũng với những âm vang mềm mại vui ca đó, thượng đế vẫn dành cho tôi để tôi chuyển đến Thuỵ Sĩ lập nghiệp trong tràn đầy  hạnh phúc…

Mẹ tôi, ở quê nhà với khoảng bốn, năm năm, sau năm 1975, lúc Việt Nam vẫn còn bập bềnh trong đói nghèo, khó khăn, mẹ tôi lại phải trôi nổi kiếm ăn và vĩnh viễn ra đi vì bệnh tật!

Cuộc sống của tôi tại Thuỵ Sĩ được an định dần dần theo năm tháng. Tất cả mọi chuyện của đời tôi xảy ra rất hoàn thiện, không một tí khó khăn. Việt Nam vẫn là nơi chốn tôi tìm về thăm viếng hàng năm.

Tôi về Việt nam để sống lại, để nhìn lại nơi chốn ngày xưa mà tôi đã được sinh ra trong bom đạn, trong đói nghèo, khốn cùng! Tôi trở về vì nơi đó vẫn còn tồn trữ biết bao nhiêu hoài nhớ của thời thủa ấu thơ cực nhọc cũng như thời trai trẻ hung hăng, đầy ước vọng, mong tiến lên phá bung cái định mệnh không may của chính tôi và gia đình. Đúng như vậy, tôi có quá nhiều lý do để tìm về Việt Nam, nơi chốn mà tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn. Tôi trở về chỉ để thăm viếng, nhìn lại quê hương mến yêu, nơi tôi có quá nhiều buồn vui thế mà thôi.

Đến ngày nay dù đã là một ông lão đầu bạc trắng lụ khụ với thời gian, tuổi tác, tôi vẫn còn cố gắng tìm về Việt Nam với tờ vé máy bay hạng bét. Khoác cái ba lô bạc rạc, đơn sơ đi khắp mọi nơi ngắm nhìn trời, non, nước…. để nhìn lại quê hương muôn đời kỷ niệm yêu thương mà tôi không bao giờ muốn quên. Đúng như vậy, dù chỉ còn tí chút sức khoẻ và đầu óc minh mẫn tối thiểu, tôi vẫn về, vì chỉ nơi đó – Việt Nam cố quốc, mới cho tôi có được những luồng hơi ấm của hoài niệm đầy rẫy thương yêu.

Đôi lần về Việt Nam, tôi cũng dành thời gian chậm rãi đi thăm lại con đường Tô hiến Thành , Lê Văn Duyệt… là nơi chốn ngày xưa, mẹ và tôi đã từng thấm ướt mồ hôi, bụi đường với những nải chuối mới cắt còn bầy nhầy nhựa xanh. Mẹ con chúng tôi bầy bán trên lề đường, mục đích chỉ mong có được vài đồng bạc nhỏ nhoi cung ứng cho sự sống của gia đình chúng tôi ngày đó. Cứ mỗi lần trở lại nơi còn ghi đậm dấu tích xa xưa cực nhọc đó, hình ảnh người đại uý Hoa Kỳ tốt bụng lại trở về trong trí nhớ của tôi. Đôi khi tôi tự hỏi, không biết vì một lý do nào đó, ngày chiến tranh chưa chấm dứt, ông không trở lại thăm chúng tôi như đã hứa lúc chia tay. Nhưng tôi (và có lẽ cả mẹ tôi nữa) vẫn cầu mong ông ta có được bình yên trở về Mỹ để sống với gia đình, vợ con hay cha mẹ của ông ta sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Ông không đến thăm chúng tôi, có lẽ chỉ vì không thuận lợi hay vì một bận rộn nào đó mà quên đi lời hứa hẹn bâng quơ. Đó cũng chẳng có gì đáng trách.

Đi xa hơn nữa trong tưởng tượng, tôi lại nghĩ đến sự giao thương thân cận của Mỹ và Việt Nam hiện tại, tôi hình dung ra cảnh người sĩ quan Hoa Kỳ tốt bụng ngày xưa đó, với mái đầu bạc trắng, theo đoàn cựu chiến binh Hoa Kỳ đến viếng thăm Việt Nam. Ông mong được nhìn lại những dấu tích, địa danh của cuộc chiến tranh kinh hoàng mà ông đã cống hiến cho nó gần hết tuổi trẻ của mình.

Rồi cũng trong cuộc du hành đó, biết đâu ông ta đã dành tí chút thời gian đi lại con đường Tô Hiến Thành để nhớ lại mẹ con người phụ nữ bán chuối rất chân thật nhiều chục năm về trước. Người phụ nữ quê mùa bán chuối xa xưa đó, bà đã bao lần dành riêng cho ông những nải chuối ngon nhất. Chính sự thân thiện, thật thà của mẹ con người đàn bà bán chuối lúc chia tay đó đã ghi sâu vào ký ức ông cảm giác nồng ấm mà họ đã dành cho ông.

Rồi một lần, có dịp sang Mỹ công tác, tôi dành thời gian đi thăm viếng “Đài tưởng niệm tử sĩ trong chiến tranh Vietnam“( Vietnam Veterans Memorial) tại trung tâm thủ đô Washington DC.

Đứng trước phiến đá vĩ đại mầu đen khắc tên của gần 60 ngàn quân nhân Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam, dù không biết tên người sĩ quan tốt bụng, quen biết thoáng qua của hơn 40 năm về trước, nhưng tôi vẫn đưa mắt chậm rãi rà soát danh sách trên phiến đá. Tôi cầu mong không có tên ông trên đó. Nhưng không biết tại sao, ngay lúc đó mắt tôi như bị lòa, tim đập mạnh trong lòng tôi phát sinh một cảm giác là lạ. Một cảm giác hình như pha trộn sự buồn đau và thương nhớ, nó làm cho tôi thờ thẫn không vui vì tôi có linh cảm người sĩ quan Hoa Kỳ đó đã không may trong cuộc chiến.

Trong tâm trạng lạ kỳ đó, tự nhiên tôi buông tiếng thở dài với câu nói rất nhẹ: God Bless You! Thượng Đế ban phước lành cho ông!

(Viết tại Zürich)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: