Trong hình là vợ và đứa con gái đầu lòng của tôi chụp vào năm 1977. Vợ tôi từ một cô nữ sinh khuê các xinh đẹp của trường Trung học Quang Trung, Bình Khê, Bình Định nhưng chỉ hai năm sau ngày 30 Tháng Tư 1975 đã trở thành một cô thôn nữ nhìn già hẳn đi vì mỗi ngày phải ra ruộng và chiều về ôm con để đợi chồng mà không biết ngày tháng nào chồng mình được thả về.
Đứa bé trong hình tên Lục Bình Hạ Uyên. Tháng Năm 1975 khi tôi bị bắt vào trại lao động khổ sai của bên thắng trận thì Lục Bình lúc đó mới chỉ là bào thai năm tháng còn đang nằm trong bụng mẹ. Tháng Chín 1975 Lục Bình được sinh ra đời trong lúc tôi mặc áo tù nhân phá rừng làm đường ở trại Đồng Găng thuộc tỉnh Khánh Hoà. Tháng Tư 1976 vợ tôi ẵm con chưa đầy bảy tháng tuổi lặn lội đường xa đi thăm tôi ở Đồng Găng. Đó là lần đầu hai cha con tôi được nhìn thấy nhau. Gọi là nhìn thấy nhau vì đám cán bộ cai tù không cho phép tôi được ôm con mình.
Tháng Sáu 1976 tôi được chuyển từ Đồng Găng ra trại A.30 Tuy Hòa. Mỗi một chiếc GMC là 50 tù binh ngồi chồm hổm chen chúc nhau. Phía trên là hai khẩu AK 47 chĩa thẳng với tư thế sẵn sàng nhả đạn nếu tụi tôi có động tịnh gì. Khi đi ngang thị trấn Ninh Hòa là nơi tôi được sinh ra và lớn lên, nhìn qua thành xe tôi thấy lại những con đường mà mới ngày nào tôi còn cắp sách đi trên đó đến trường. Nhưng con đường gần gũi đến thế mà giờ đây chừng như xa vời vợi.
Tháng Mười Hai 1977 vợ tôi ẵm Lục Bình thăm tôi lần nữa tại trại A30. Lúc này Lục Bình đã biết đi chập chững và tôi được phép ôm con. Đó là lần duy nhất trong cuộc đời tôi được ôm con trong vòng tay. Nhìn vợ tôi xơ xác, nhìn Lục Bình ốm tong teo vì thiếu dinh dưỡng lòng tôi đau như cắt mặc dù hình hài tôi cũng chẳng ra gì sau hai năm cuốc đất làm ruộng bất kể nắng mưa cùng những cơn đói triền miên.
Tháng Tư 1978 tôi được đưa ra tổ nuôi heo của trại. Khu chăn nuôi nằm ngoài vòng rào. Công việc của tôi mỗi ngày đến tổ xay giã để sàng cám gánh về nấu cháo cho heo. Tôi có người bạn thân chí cốt tên Cao Điền ở trong tổ thợ mộc. Mỗi lần đi gánh cám tôi thường mon men đến tổ thợ mộc để tán dóc với hắn. Hai đứa thân nhau từ nhỏ sống cùng quê đi lính cùng ngày, ở tù cùng chỗ cho nên tuyệt đối tin tưởng với nhau. Hai thằng thường nghe ngóng tin tức để thắp cho nhau hy vọng là có một ngày nào đó thoát được ra ngoài. Vào một ngày như mọi lần khi đang nói chuyện thì Cao Điền buột miệng hỏi tôi:
– Con mày sao bị mất vậy?
Tôi nghe như đất trời xung quanh sụp đổ. Tôi hỏi ngược lại hắn
– Ai nói với mày?
Hắn biết mình vừa hớ miệng nhưng đã lỡ nên trả lời:
– Bữa trước bà xã tao thăm nuôi có nói và gia đình dặn là giấu mày vì sợ mày ngã quị.
Hắn còn nói thêm:
– Con mày mất vào ngày mồng 10 Tết.
Tính ra từ ngày con tôi mất đến ngày tôi biết tin là bốn tháng. Tôi không nói tiếng nào lẳng lặng gánh hai thùng cám trở về tổ nuôi heo. Ngang đám rẫy mì thấy không có ai, tôi chui vào đó ngồi và nước mắt không biết từ đâu tuôn xối xả. Tôi khóc ngon lành.
Mới ngày nào cuối Tháng Tư 1975 trên đường di tản của một chiến binh thất trận trong lòng tôi có rất nhiều điều muốn gửi gấm đến con mình. Tôi định mai này khi con tôi ra đời và lớn lên tôi sẽ kể cho con mình nghe lịch sử của một đất nước vừa bị xóa tên trên bản đồ đầy đau thương và bi tráng. Nay điều đó đã không còn ý nghĩa nữa vì con tôi đã bỏ ra đi. Rồi tôi liên tưởng đến tiếng búa đóng đinh lên nắp hòm nhốt kín con mà không có tôi bên cạnh. Thắt lòng.
Tôi đã không chu toàn trách nhiệm để gìn giữ đất nước và con. Xin tạ lỗi.
TẠ LỖI CÙNG CON
Thôi nhé con không có ba đưa tiễn
Ngày con đi về cuối trời miên viễn
Trời cũng buồn ảm đạm mưa tuôn
Xám cả đất trời xám cả Qui Nhơn
Con lặng lẽ không một lời than thở
Rớt lạnh lùng một cơn bão nhỏ
Từ quê nhà theo bước con đi
Ngày xa con xiềng xích cột chân tay
Trong song sắt ba ngậm hờn vong quốc
Viết sẵn cho con một tờ di chúc
Con đi rồi ba biết gửi cho ai
Nụ hôn đầu theo gió gửi vào nôi
Thành nụ cuối theo mây về nẻo vắng
Thế là hết. Nay đã thành quá vãng
Tờ di chúc buồn theo năm tháng không quên
Những yêu thương không kịp gửi về con
Những rướm máu trong lòng ba quặn thắt
Con có trách sao ba không về vuốt mắt
Không ôm con ủ lạnh dưới trời mưa
Chỉ một lần thôi cũng đủ ấm con thơ
Chỉ một lần thôi là điều con ước nguyện
Những tiếng búa thay tiếng lòng đau điếng
Gọi ba về khẩn thiết con mong
Mà ba thì đang quị ngã bên đường
Vẳng bên tai tiếng đinh trên nắp hòm tê tái
Thế là hết đâu mong gì trở lại
Những nhát búa buồn vọng mãi trong đêm
Theo thời gian ôm nỗi nhớ gọi tên
Con có trách ba cúi đầu nhận tội
Thế là hết ba đã không trở lại
Cho trọn tình con dù chỉ một lần
Ngày con đi ba quị té bên đường
Tay run run đánh rơi tờ di chúc
(Bài thơ làm tại Trại A30 – năm 1979)