2015
Nhìn những gương mặt bạn bè trong tấm hình ngày họp lớp do Hữu Việt gởi qua, nỗi nhớ Tam Kỳ lại về đầy ắp trong tôi. Choáng ngập trong đầu tôi là những kỷ niệm với thầy cô và bè bạn trong ba năm ở Trung học Trần Cao Vân. Những kỷ niệm vẫn thường trở về trong giấc ngủ của tôi dẫu đã ba mươi năm xa cách.
Ngày ấy tôi là một con bé ốm nhom háo hức cùng với bạn bè đến trường Trần Cao Vân để bắt đầu năm học lớp mười. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác thật là người lớn khi mỗi ngày ôm cặp ra khỏi cái xóm ngã Tư của tôi để đi đến trường. Tôi không còn chơi với mấy đứa trong xóm nữa bởi tôi đã lên cấp ba, còn tụi nó thì nhỏ hơn tôi một cấp. Từ đó, Tam Kỳ với tôi là bạn bè trong lớp ở trường Trần Cao Vân. Mỗi ngày tôi với Quỳnh Hoa đi bộ quẹo qua đường Trần Dư rủ Thanh Thuỷ với Huỳnh Vân cùng đi đến trường. Mấy tháng sau, Quỳnh Hoa và Huỳnh Vân đậu vào trường chuyên Đà Nẵng. Chỉ còn tôi với Thanh Thuỷ lội bộ mỗi ngày.
Chẳng hiểu sao trong ký ức tôi không có nhiều kỷ niệm của lớp mười và mười một. Cũng chừng ấy gương mặt nhưng đến năm mười hai đứa nào cũng khác hẳn ra. Nhiều thầy cô dạy chúng tôi hai năm đầu cũng nhận ra những thay đổi ấy. Tôi nhớ thầy Luyện điểm danh chúng tôi giống như mới gặp lần đầu dẫu rằng thầy dạy Hoá chúng tôi năm trước đó. “Các anh chị lớp này có tên giống như là diễn viên điện ảnh. Đoàn Triệu Mai Thoa, Lương Kim Đình Chính, Mai Hữu Sơn, Nguyễn Triệu Thanh Tuyền, Trương Phước Minh Trang, Trần Phan Huyền Trân, Trần Vũ Mỹ Trang….” Mà quả thật các nàng lớp tôi rất đẹp. Tiếng tăm vượt ra khỏi biên giới Tam Kỳ, đồn đến tận các trường đại học Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn. Thời bấy giờ không có thi hoa khôi, hoa hậu chứ không thì các nàng của lớp tôi thể nào cũng đoạt giải. Còn các chàng của lớp tôi thì thành tích học hành sừng sỏ lắm. Ngọc Thịnh, Quốc Việt, Phi Thạnh, Bá Linh…. đã từng ở trong các đội học sinh giỏi các môn, đã từng đi thi huyện, tỉnh năm lớp chín. Tôi như một khán giả không tên tuổi đi xem một chương trình biểu diễn “live” mỗi ngày trong lớp tôi.
Năm mười hai tôi chơi thân với Kiều Hạnh. Hình như con gái trong lớp chỉ có tôi với Kiều Hạnh thi khối A nên trong lớp học luyện thi buổi tối ở nhà thầy Quân chỉ có tôi và nó lọt vào giữa đám con trai hơn mười đứa. Nhà thầy Quân ở đường Nguyễn Thái Học. Chín giờ tối tan học, đường tối om. Tôi sợ ma khi đi qua cánh đồng chỗ cống bà Xèng một mình nên thường đi với Kiều Hạnh vòng ra đường Phan Chu Trinh, rồi mới lên đường Huỳnh Thúc Kháng về nhà. Tôi thường bám theo Phi Thạnh và Ngọc Thịnh chạy nhanh qua quãng đường có cây đa cổ thụ trên chợ Mai một chút, nơi nổi tiếng những câu chuyện ma. Thời bấy giờ vì sợ bị ghép đôi nên bạn bè khác phái trong lớp chẳng bao giờ dám đạp xe song song trên đường. Bây giờ mỗi lần kể chuyện lớp ngày xưa, tụi tôi cứ cười không hiểu nổi cái sợ hãi vu vơ của tuổi học trò ngày ấy.
Năm mười hai chúng tôi may mắn được học với những thầy cô có tiếng trong trường. Những bài giảng Cơ, Quang, Điện của thầy Quân theo tôi vào những lớp Lý trên đại học. Tôi là đứa chậm tiêu. Khi còn học với thầy thì lúc nào cũng vừa đủ điểm trung bình. Nhưng lúc lên đại học, không hiểu sao lại nhớ cách giải của thầy. Một giáo sư dạy Lý khen tôi có cách trình bày bài toán Vật lý hay và lạ. Cảm ơn thầy rất nhiều về những bài giảng trong ba năm cấp ba. Nhớ những lớp Toán của thầy Cường với hình vẽ không gian đẹp tuyệt vời. Thời bấy giờ cái gì cũng hiếm nhưng chẳng biết thầy tìm đâu ra mấy viên phấn màu. Chúng tôi cứ tròn mắt ra nhìn những hình không gian ba chiều hiện ra sau mỗi nét vẽ của thầy. Có lần thầy vẽ đẹp quá, chúng tôi cứ trầm trồ mãi không muốn xóa. Khi đến tiết kế tiếp, chúng tôi lại năn nỉ các thầy cô đừng lau bảng để dành hình cho đến cuối buổi học.
Nhớ những giờ học Sử với thầy Tâm. Thầy có mấy bộ sưu tập những hình ảnh màu các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mỗi lần thầy dùng những hình ảnh rất đẹp này để minh họa cho bài giảng, những bài học lịch sử trở nên sinh động và dễ nhớ hơn. Nhớ những giờ học Anh văn với cô Thu Phúc. Cô thường đến lớp với những chiếc áo dài thật đẹp, quí phái như họ Tôn nữ của cô. Nhớ có lần cô dạy chúng tôi bài hát “Red river valley.” Nghe cô hát qua một lần, tôi thích ngay giai điệu bài hát. Vậy mà lớp tôi với những giọng ca sương khói huyền thoại như Minh Trang, Mỹ Trang, Mai Thoa, Bích Vân, Lệ Hải, Minh Đức, Hữu Việt, Thanh Yên… lại hát không ra tiếng. Chắc có lẽ vì trong bài hát có câu: “Then come and sit by my side if you love me…” mà các ca sĩ lớp tôi mắc cỡ chăng? Thời học trò ngày xưa ngây thơ dễ thương quá!
Nhớ mấy giờ học văn học lãng mạn với cô Nguyệt Thanh. Hình như hồi đó chương trình chỉ có hai tiết giới thiệu về văn học lãng mạn. Cô dạy những bài thơ tình của Xuân Diệu, rồi những tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Cô giảng ba hay bốn tiết gì đó, chúng tôi nghe say sưa. Nhớ hôm cô kể chuyện tình Vọi và Hiền trong tác phẩm “Trống mái” của Khái Hưng, chúng tôi ngồi nghe chăm chú quên mất tiếng trống báo đổi giờ. Đến khi thấy thầy Cường xuất hiện nơi cửa lớp, chúng tôi năn nỉ thầy cho xin thêm mười lăm phút để cô kể xong câu chuyện. Thầy rộng rãi cho nguyên một tiết học để cô kết thúc phần văn học lãng mạn. Sau mấy tiết học đó, tôi về nhà ông anh họ, lục tìm mấy cuốn sách trước năm 75 đọc không sót cuốn nào. Tôi thấy nhiều chi tiết trong cuốn “Phê bình văn học nghệ thuật” của Hoài Thanh có trong bài giảng của cô nhưng không có trong sách giáo khoa thời đó. Cảm ơn cô về những bài văn, bài thơ và bài phê bình bị cấm để chúng tôi được thưởng thức một phần những tác phẩm tuyệt vời của văn học Việt nam.
Nhớ lúc học thi tốt nghiệp ở nhà Kiều Hạnh. Má nó thương tôi như con. Có lần tôi ở lại nhà nó học bài. Chúng tôi học trên lầu. Buổi tối nhìn ra, Kiều Hạnh chỉ ra đó là nhà Thuỷ lớp 12/2. Nhích qua xíu nữa là nhà Khắc Lắm, rồi hai chị em Huyền Trân và Quốc Việt. Xa hơn tí nữa là nhà Hữu Việt. Nhà nào cũng đèn sáng choang, chứng tỏ tụi nó còn thức. Mà tụi nó còn thức thì hai đứa tôi cũng không dám đi ngủ. Kiều Hạnh bàn, “Để tau pha cà phê uống.” Lần đầu tiên tôi nhấm ngụm cà phê đắng ngắt. Chẳng có gì ngon hết nhưng uống để thức. Chúng tôi chẳng thức mà lăn ra ngủ đến lúc mặt trời mọc lên xuyên qua cửa mà không biết. Má nó phải đánh thức tụi tôi dậy.
Năm đó thi tốt nghiệp bốn môn: Toán, Văn, Lý, Anh. Nếu không học Anh văn thì thi Sử. Dân khối A và khối D thích nhất vì vừa học thi tốt nghiệp và lại học thêm hai ba môn thi đại học. Tôi nhớ Ngọc Thịnh chạy ngang qua nhà tôi reo lớn, “Toán, Văn, Lý, Anh.” Nhà Thịnh có radio nên biết tin tức sau nghe khi loan báo trên đài. (Thời bấy giờ không phải nhà nào cũng có radio.) Trong bốn môn đó, tôi sợ nhất là môn Văn. Ba môn kia thì học được nhưng môn Văn thì chẳng biết học làm sao. Hồi đó bài làm văn phải viết ít nhất là một tờ giấy đôi có bốn trang rứt ra từ vở học trò. Tôi chẳng bao giờ viết kín được ba trang. Tôi thường ráng viết chữ thật to. Rồi chừa bốn năm dòng cho phần điểm và lời phê. Vậy mà tôi cũng không thể nào lấp kín được đôi giấy. Bởi vậy môn viết văn của tôi năm nào cũng đều đặn từ bốn điểm rưỡi cho tới năm điểm rưỡi. Cộng trung bình, đủ điểm để lên lớp. Thi tốt nghiệp xong, tôi biết mình sẽ được hơn năm điểm ba môn kia. Nhưng môn Văn thì hồi hộp chờ kết quả. Nghe nói chấm bài chung toàn tỉnh và thầy cô trường Phan Chu Trinh, Đà nẵng thì chấm rất khó. Tôi sợ không biết mình có đậu không. Nghe cô Nguyệt Thanh, cũng là cô chủ nhiệm, đi chấm thi về, tôi chạy ra nhà cô hỏi thăm. Cô nói, “Cô không biết kết quả nhưng cách viết của em chắc chắn được năm điểm.”
Quả đúng vậy. Tôi được năm điểm. Mừng hết lớn! Mừng nhất là từ đó tôi không phải viết những gì tôi không muốn và không thích viết. Cảm ơn cô Nguyệt Thanh, người đã cho tôi những bài giảng để tôi biết thưởng thức được cái hay, cái đẹp trong những bài văn. Cảm ơn cô về những phần thưởng nho nhỏ khích lệ chúng tôi trong học tập. Những phần thưởng ấy là những gói kẹo hay cuốn sổ nhỏ cô mua phát thưởng cho tụi tôi từ tiền lương của cô, theo tôi biết là không nhiều lắm. Thế mới biết lòng yêu nghề của cô lớn thể nào. Tôi nhớ mãi lời nói của cô trong lần thăm cô trước khi chia tay Tam Kỳ. “Ở đâu cũng phải làm việc. Bên đó giếng có thể sâu, nhưng em có niềm hy vọng là có nước để múc.” Tôi chẳng biết cô có khuyên ai câu này không, nhưng tôi cảm thấy câu này cô chỉ dành riêng cho tôi. Cảm ơn cô rất nhiều về triết lý sống này. Cảm ơn các bạn 12/1 khóa 84-85 đã cho tôi những kỷ niệm rất đặc biệt trong đời. Những kỷ niệm không thể nào quên được. Những kỷ niệm làm tôi bay bổng những khi nhớ về tuổi học trò ở trường Trần Cao Vân năm nao.
2025
Vào tháng 5 năm 2024 tôi đã về Tam Kỳ để thăm bạn bè và các thầy cô sau mấy chục năm xa cách. Mặc dầu có nói chuyện điện thoại với vài người bạn và thỉnh thoảng cũng có email nhưng không thể nào bằng gặp nhau “tay bắt mặt mừng.” Buổi chiều đầu tiên tôi rủ ba cô bạn thân ở Tam Kỳ ngày xưa đi chơi ở biển Rạng. Nhớ hồi năm lớp 7 được chọn là cháu ngoan bác… và cô giáo bảo rằng tôi sẽ được đi dự trại hè ở Bàn Than – biển Rạng. Tôi háo hức trông chờ cả mùa hè nhưng chẳng thấy trường gọi cho đi. Nghe nói biển Rạng đẹp lắm mà tôi chưa bao giờ được đặt chân tới. Hồi đó nhà tôi chỉ có một cái xe đạp để mẹ đi buôn bán nên tôi chỉ biết đi đến trường và về nhà.
Lần này về Tam Kỳ tôi quyết đi biển Rạng để ngắm hoàng hôn và bình minh với bạn bè để bù lại chuyến đi hụt năm lớp 7. Biển đẹp và vắng nên “tứ cô nương” tha hồ tung tăng chụp hình như thuở học trò mấy mươi năm trước. Làm dáng kiểu này, nghiêng người kiểu kia, tựa mỏm đá kiểu nọ, rồi kể công “ta hy sinh vì nghệ thuật”… Tối về khách sạn kể chuyện đời mỗi đứa từ khi rời trường cho tới một giờ sáng. Năm giờ thức giấc chạy ra ngắm bình minh trên biển và chụp hình tiếp. Tôi thấy mình như sống lại ngày xưa. Tối đó các nàng gom góp bạn bè Tam kỳ cho tôi gặp mặt. Không đầy đủ tất cả nhưng tôi cũng gặp được rất nhiều bạn học từ nhỏ trong đó có nhiều bạn tôi chưa gặp lại từ khi ra trường. Lại kể chuyện ngày xưa và đùa giỡn cười nghiêng ngả. Cảm ơn các bạn đã cho tôi sống lại những tháng ngày học trò thật dễ thương trong mấy ngày ngắn ngủi về thăm Tam kỳ.
Tối kế tiếp tôi đi gặp thầy Quân, cô Thu Phúc và cô Nguyệt Thanh là những người đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong quãng đời học trò của tôi. Ngoại trừ cô Nguyệt Thanh tôi gặp hồi về Tam Kỳ năm 2001, tôi chưa một lần gặp các thầy cô từ tháng 5 năm 1985 cho tới tháng 5 năm 2024. Tôi có thư từ, email, và điện thoại cho hai cô vài lần mỗi năm nhưng các thầy thì dầu rất quý và kính thì vẫn là mấy thầy, không thể nhỏ to tâm sự như với hai cô được. Đã mấy chục năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhận ra những gương mặt quen thuộc của các thầy cô. Quý thầy cô của tôi vẫn không khác xưa mấy. Nếu trong buổi gặp mặt với thầy Cường ở Sài gòn tôi còn ngại ngùng và nhút nhát thì hôm gặp các thầy cô ở Tam kỳ tôi có phần tự tin hơn một chút.
Cô Thu Phúc dạy Anh Văn lớp tôi suốt ba năm trung học. Nhớ năm lớp 10 trong giờ học Anh văn đầu tiên với cô, tôi quá ngạc nhiên khi thấy cô vào lớp với cái áo dài có màu sắc thật đẹp. Cô chào chúng tôi bằng một tràng tiếng Anh và trông cô rất sang như các diễn viên điện ảnh. Tôi ngưỡng mộ cô vô cùng nhưng không bao giờ dám đến gần. Phải nói là cách ăn mặc của cô ảnh hưởng tới tôi rất nhiều. Có một lần nói chuyện với cô trên điện thoại, tôi nhắc lại ngày xưa, “Hồi đó, có vẻ cô thong thả hơn các thầy cô khác rất nhiều. Cô đến lớp với những tà áo dài đẹp và sang trọng. Em thích những chiếc áo cô mặc lắm và mơ sẽ có một ngày có được như vậy.” Cô nói, “Hồi đó cô cũng khổ lắm nhưng muốn ăn mặc đàng hoàng cho học trò vui. Thời đó cũng như bao người khác, gia đình cô cũng không có tiền ăn uống đầy đủ. Cô nhịn ăn uống để lo cho mấy đứa con nên bị xỉu hoài.”
Vậy mà tôi đâu có biết. Tôi cứ tưởng cô có một cuộc sống vương giả. Lúc tôi đi dạy ở Mỹ xuân, nhà trường khuyến khích các cô giáo mặc áo dài trở lại bằng cách cho tiền may áo dài. Tôi ráng lựa vải giống như trong trí nhớ của tôi về cô để may những bộ áo dài đầu tiên. Bây giờ tôi bắt chước cô, tuy không hàng hiệu nhưng “ăn mặc đàng hoàng cho học trò vui” mỗi khi chọn lựa áo quần đến lớp mỗi ngày dù bên này từ thầy đến trò đa số đều ăn mặc rất xuề xoà. Trong khoa, tôi thuộc về nhóm những người ăn mặc tươm tất và tôi thấy điều này có ảnh hưởng rất tốt đến việc giảng dạy của tôi.
Thầy Quân thì tôi chưa hề gặp, trao đổi email hay nói qua điện thoại từ khi tôi rời trường Trần Cao Vân vào tháng 5, 1985. Nhớ thầy nghiêm lắm, hiếm khi thấy thầy cười. Dạy chúng tôi ba năm mà tôi nhớ thầy chỉ cười có hai lần. Một lần thầy mặc áo mới thay cho cái áo cũ đã sờn vai thầy mặc bao năm. Đám học trò lớp tôi reo lên, “Thầy mặc áo mới!” và tụi tôi đứng vỗ tay mãi. Thầy cười ngượng nghịu mắc cỡ và ra dấu cho chúng tôi ngồi xuống nhiều lần thì đám học trò nghịch ngợm mới chịu ngồi xuống. Lần thứ hai khi thầy giảng về điểm vô hạn trong phần quang học. Thầy nói, “Bởi vậy mỗi lần chúng ta mỏi mệt, hãy dõi mắt nhìn về chân trời xa xăm thì mắt chúng ta sẽ được nghỉ ngơi thư giãn.” Nếu người khác nói thì không sao, nhưng vì thầy nghiêm quá nên chúng tôi nghe như thể thầy đang đổ thơ để trải lòng ra với ai đó… Thế là đám học trò ồ lên tán thưởng. Thầy lại ngượng nghịu cười mắc cỡ.
Mặc dù cũng thích môn Lý nhưng lúc học với thầy, tôi cũng chỉ là một học sinh thuộc loại làng chàng. Chẳng hiểu vì sao mười mấy năm sau tôi vẫn nhớ những bài giảng lý thuyết về cơ và điện của thầy. Để đủ tiêu chuẩn đi học chương trình cử nhân ở UC Irvine, tôi phải lấy hai lớp Vật lý, một về Cơ và một về Điện ở community college. Hai giáo sư của hai lớp đó dạy Vật lý rất khác với cách tôi học bên Việt nam. Sinh viên phải làm thực hành thí nghiệm trước rồi tự khám phá ra những định luật và công thức. Các giáo sư muốn sinh viên cũng có được trải nghiệm như những nhà vật lý khi họ khám phá ra những công thức hay quy luật lần đầu tiên. Dầu có các giáo sư dẫn dắt, nhưng những bài thí nghiệm như vậy là không dễ chút nào. Không phải ai cũng có những đầu óc phi thường như những nhà vật lý nổi tiếng như Newton hay Ohm. Trong những bài thí nghiệm đó, tôi tự nhiên nhớ lại những định luật và công thức đó hồi học với thầy Quân, nhất là thí nghiệm về điện. Tôi dùng định luật và công thức tính toán kết quả trước rồi rắp nối theo để ra kết quả như thầy mong muốn. Sau mấy lần xem tôi làm thí nghiệm, ông thầy đến hỏi lý lịch làm việc của tôi ở Việt Nam. Nghe tôi kể gốc gác là đã từng đi dạy ở Việt nam, ông khuyên tôi đi học để đi dạy trở lại. Tôi rất biết ơn thầy Quân về những bài giảng Vật lý năm xưa. Nhờ vậy mà tôi mới được quay trở lại nghề dạy học nơi xứ người, một nghề nghiệp mà tôi tưởng phải vĩnh viễn chia tay khi tôi rời Việt nam.
Quay lại hôm gặp mặt các thầy cô ở Tam Kỳ hôm tháng 5, 2024. Thầy Quân nói, “Thầy rất ngạc nhiên khi được mời đến hôm nay vì thầy không nhớ em là ai cả.” Tôi trả lời, “Thầy không thể nhớ em được vì thầy có cả mấy ngàn học trò trong bao nhiêu năm dạy học. Em ngày xưa học chỉ vừa đủ điểm đậu thì làm sao thầy nhớ được em. Nhưng nhờ những lớp học với thầy mà em có được hôm nay.” Rồi tôi kể cho các thầy cô nghe hành trình học hành của tôi khi rời Việt nam và tôi cảm ơn những tháng ngày học hành với quý thầy cô. Nghe xong, cô Nguyệt Thanh nói, “Em cảm ơn thì cô nhận nhưng không biết cô đã để lại cho em bài học gì…” Tôi đáp, “Dạ có nhiều lắm chớ.” Nhưng tôi không kể ra được nhiều lúc đó. Tôi đúng là đứa chậm ăn nói! Thôi thì hôm nay kể trên bài này vậy.
Tôi bắt chước cô Nguyệt Thanh rất nhiều điều khi tôi đi dạy những năm đầu tiên ở Việt nam. Ngày xưa cô mua những phần thưởng nhỏ để khích lệ học sinh lớp tôi học hành. Tôi cũng bắt chước làm giống như vậy để khích lệ học trò tôi. Nhớ hồi đó lớp tôi có Lã Đình Tuấn, ốm, cao và hay để tóc dài và bị trường phạt trừ điểm thi đua của lớp. Cô không phạt mà còn binh cho Tuấn, “Gương mặt nó cắt tóc ngắn lên, nhìn ngố lắm. Để dài một chút nhìn nghệ sỹ hơn.” Cô chẳng sợ phải chống lại luật lệ của trường mà cứ làm điều gì thấy phải. Lúc tôi đi dạy ở Hắc dịch, đa số gia đình các em học sinh làm nương rẫy nên cuộc sống khó khăn, nhiều khi không có tiền đi cắt tóc. Tôi bắt chước cô, cũng lờ đi những lời nhắc nhở của nhà trường vì nhiều nam sinh trong lớp tôi chủ nhiệm tóc dài quá. Tôi biết cô có đến thăm một số bạn trong lớp tôi để khích lệ các bạn trong học tập, tôi cũng bắt chước làm như vậy với một số học trò của tôi. Có lẽ vì vậy mà những học sinh đầu tiên của tôi quý tôi đến bây giờ.
Cô Nguyệt Thanh dạy Văn mà hồi đó thì môn Văn của tôi là ẹ nhất. Nhưng mà tôi rất quý cô. Năm tôi học lớp 9 đã nghe các anh họ kể về cô. Tôi ước sẽ được học Văn với cô khi lên lớp mười nhưng đến năm lớp 12 mới được học với cô. Nhớ cô luôn bước vào lớp trong tà áo dài trắng giản đơn trẻ trung như sinh viên đại học. Tôi quý cô từ ngày đầu tiên cô bước vào lớp cho đến tận bây giờ. Từ khi ra trường năm 1985 đến nay, tôi về Tam Kỳ chỉ có bốn lần và lần nào cũng tìm gặp cô. Cô dạy hay nhưng tôi cũng không khá mấy khi học với cô bởi tôi viết văn không ra chữ. Tôi ngày ấy chỉ là một con bé học hành vừa đủ đậu nhưng cô cũng đã để rất nhiều thì giờ và chọn lựa chữ nghĩa để viết cho tôi đầy năm trang trong cuốn lưu bút của tôi. Tôi không biết cô đã viết những dòng lưu bút như vậy cho bao nhiêu học trò nhưng tôi thích nghĩ là cô đã dành cho tôi cái ưu ái đặc biệt đó. Những dòng lưu bút của cô, không công thức nhưng rất riêng tư, rất nâng niu và rất tha thiết. Tôi đọc những dòng chữ ấy không biết bao nhiêu lần trong năm đầu tiên xa Tam kỳ, lúc tôi phải dãi dầm mưa nắng làm ruộng rẫy ở Mỹ xuân. Những gì cô viết đã khích lệ tôi rất nhiều trong những tháng ngày tăm tối tưởng như không còn có hy vọng. Tôi đã làm như cô nhắn nhủ, “… hãy sống hết lòng…” và tôi đã thấy cuộc đời dễ thương hơn như vế sau trong lời khuyên của cô. Em cảm ơn cô đã gieo cho em niềm tin vào cuộc đời. Đó có lẽ là bài học lớn nhất.
Tôi cảm ơn Chúa cho tôi có các thầy cô tuyệt vời bởi tôi không nghĩ là tình cờ hay may mắn mà tôi có được những thầy cô như vậy trong năm cuối cùng của tuổi học trò. Các thầy cô không những dạy tôi kiến thức nhưng còn cho tôi những lời khuyên rất chân thành, rất thực tế và rất khích lệ. Một con bé học hành rất bình thường, không tên tuổi và con nhà ở tầng lớp thấp nhất đã được các thầy cô nâng đỡ khuyên lơn để bây giờ tôi có được nghề nghiệp như tôi từng mơ ước. Tôi đang sống trong giấc mơ ngày xưa của tôi. Có một học trò bảo rằng nó theo nghề dạy học vì nó được học với tôi. Tôi vui mừng vì thấy tôi đã chuyển được ngọn lửa nhiệt thành của thầy cô cho một lớp sinh viên kế tiếp. Vô cùng biết ơn các thầy cô, những người đã để lại những dấu chân rất đặc biệt trong cuộc đời của tôi.




























