Theo Quách Tấn, tìm về núi cũ xem mai nở

Ảnh: Dave Hoefler/Unsplash
Văn Hóa - Văn Nghệ
Văn Hóa – Văn Nghệ
Theo Quách Tấn, tìm về núi cũ xem mai nở
Loading
/

1/ 

Trong một bài viết về tác phẩm Nước Non Bình Định (xin viết tắt NNBĐ) của Quách Tấn, cố học giả Nguyễn Hiến Lê có nói rằng, ông vốn rất mê các cửa biển miền Trung. Nhưng trong NNBĐ, Quách Tấn chỉ dành có mười tám trang để viết về biển, nên đọc xong mười tám trang đó ông còn cảm thấy thèm. Ngược lại, trong chương viết về núi non, Quách Tấn đã dành đến tám chục trang. Và Nguyễn Hiến Lê đã tóm lược tám chục trang mà Quách Tấn viết về núi như thế này:

“Trong tám chục trang tác giả có tới trên trăm ngọn núi. Tuy không cao lắm nhưng “hùng dũng hiểm tuấn” nhiều ngọn núi hình dáng rất kỳ dị như ngọn Mã Thiên Sơn, đứng phía này mà ngó thì rất ngạo, hung tợn như “há miệng mắng trời” nhưng đứng phía khác thì trông lại rất hiền lành “lễ độ”, có phía coi như ông Phật ngồi, có phía như hổ nằm, mà từ trên cao nhìn xuống thì trông như cánh buồm. Có núi hình dáng không kỳ dị, mà sắc thì diễm ảo như núi Xương Cá, những buổi trưa nắng gắt ở xa trông vào thấy sát khí bốc lên ngùn ngụt. Còn vào những đêm trăng sáng, những buổi sớm tinh sương thì long lanh lóng lánh như hạt kim cương (1).

Và trong quyển hồi ký viết vào những ngày cuối đời, Nguyễn Hiến Lê vẫn nhắc lại: “Nhất là cảnh núi mà tôi tin chắc rằng không ai viết hay hơn Quách Tấn được” (2). Trong hơn một trăm ngọn núi mà Quách Tấn đã viết trong NNBĐ, có một ngọn đã chạy dọc sau làng quê của tôi: Hồi nhỏ tôi nghe dân làng gọi là Núi Bà, sau đọc được Quách Tấn thì tôi mới biết núi còn có tên là Bố Chánh Đại Sơn. Đúng như cách gọi của chữ Hán cũng như chữ Việt, núi hùng vĩ vô cùng.

Quách Tấn viết trong NNBĐ: “Núi chiếm một vùng rộng có đến trăm dặm vuông. Núi ngó ra biển, hùng vĩ, hoành tráng”. Trong núi có nhiều ngọn cao chất ngất, như Hòn Hèo ở phía Đông Nam, hòn Hang Rái ở phía Đông Bắc, hòn Chuông ở phía Tây v.v… (3).

Tôi bắt đầu nhìn ngắm được ngọn Núi Bà là vào những năm 1953 đến 1954, tức là những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Pháp. Đầu làng tôi có một cây cầu gỗ bắc ngang qua sông. Dân phía bên này và bên kia sông đều đi lại bằng chiếc cầu gỗ này. Nhưng chiếc cầu đã vô tình trở thành tai họa giáng xuống dân làng, vì ngày nào máy bay Pháp cũng đến dội bom xuống chiếc cầu.

Tôi còn nhớ như in, hễ cứ nghe gà gáy canh đầu là mẹ tôi đánh thức tôi dậy cùng với dân làng đi lên đèo Tó Mọ để tránh bom đạn. Đèo này nằm sâu trong dãy Núi Bà, nên dân làng phải ráng sức để khi đến nơi thì trời vẫn còn tối, vì ban ngày thì sợ máy bay thấy sẽ rất nguy hiểm. Tôi thì còn quá nhỏ nên khi bắt đầu leo núi, mẹ tôi phải cõng tôi trên vai để đi cho kịp với mọi người. Vào những đêm trời có trăng, vừa leo núi tôi lại còn nhìn thấy mặt trăng mọc ngay trên đỉnh núi. Mặt trăng lúc ấy trông buồn bã làm sao:

Đêm đêm nằm đợi canh gà giục
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri

(Mùa cổ điển)

Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn thích đọc lại hai câu thơ ấy của Quách Tấn, đọc để nhớ lại tuổi thơ của một thời ly loạn đã qua.

Vào mùa Đông hay Tháng Giêng, Tháng Hai trời còn gió chướng, từng cơn gió rét buốt từ đèo Tó Mọ đổ xuống cánh đồng Dạy, cánh đồng nằm kề cận làng tôi. Những buổi chiều đi học về, tôi cùng những đứa trẻ cùng làng phải cắm đầu mà chạy để tránh cái rét như cắt da ấy. Những lúc đó, tuổi thơ tôi đã cảm nhận một cách mơ hồ rằng, con người hoàn toàn xa lạ và bơ vơ trước vũ trụ bao la kia.

Rồi lớn lên rời bỏ quê hương, mỗi khi có dịp trở về để đi qua cánh đồng lộng gió ấy, tôi còn phải chịu đựng cơn gió rét buốt khác nữa, cơn gió dâu bể của cuộc đời. Nhiều thế hệ tiếp nhau sanh ra, lớn lên, sống trong âm thầm rồi họ cũng đã âm thầm trở về nằm yên dưới rặng núi này:

Gò xanh vun nấm cỏ
Ghi dấu thời gian qua
Chữa nhạt niềm tâm sự
Âm thầm xuân nở hoa.

(Mộng Ngàn Sơn)

Mười năm, hai mươi năm hay ba chục năm, có lẽ chỉ dài đối với một đời người. Nhưng với một dòng sông hay một rặng núi thì quá ngắn để mà ta có thể thấy sự thay đổi của nó. Bởi vậy mỗi lần trở về tôi thấy núi vẫn xanh và những đám mây trắng vẫn bay trên đỉnh núi như dạo nào.

Vậy là, tôi thường tự nhủ, núi đứng đó không phải chỉ để nhìn “Sóng lớp phế hưng” của cuộc đời thôi, mà chừng như dãy núi còn biết lắng nghe tâm sự của bao thế hệ đã đến từ rặng núi này nữa:

Chữa nhạt niềm tâm sự
Âm thầm xuân nở hoa

Tôi tưởng tượng Quách Tấn cũng đã nhiều lần đứng nhìn những nấm mồ nơi rặng núi của quê nhà nên ông mới có một nỗi buồn heo hút đến như vậy.

2/ 

Tâm sơn dục minh đức
Lưu huân vạn do diên
Ai loan cố đồng thượng
Thanh âm triệt cửu thiên

(Ở trong núi nuôi dưỡng các đức tánh sáng chói
Hương thơm tỏa ra hàng vạn dặm
Rồi cũng giống như con chim loan cất tiếng kêu buồn thảm trên cây ngô đồng
Âm thanh của nó vọng đến chín từng trời)

Có thể vay mượn một bài thơ của Kumarajiva (Cưu Mala Thập) như vậy để thấy núi non hết sức quan trọng trong bước đi lên của con người. Vì dường như những thành tựu tâm linh lớn nhất của con người từ xưa đến nay đều phát xuất từ núi rừng cô tịch?

Ta có thể giả thiết như thế này: Nếu không có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới ở Ấn Độ thì nhân loại đã không tìm ra được con đường để đi rồi. Quách Tấn dường như đã linh cảm được rằng, con người của thực dụng hôm nay đã đánh mất dần núi non trong hồn mình. Nên ông đã đem hết sức bình sinh để làm sống lại cái đẹp của núi non trong tâm hồn con người hôm nay.

Quách Tấn đã bắt đầu bằng một truyền thuyết dân gian đầy thơ mộng về hai rặng núi ở quê nhà ông như thế này: “Truyền rằng xưa kia lúc mà ông Trời bà Đất hết khắng khít với nhau, ông bay lên cao, bà hạ xuống thấp, bỏ nước non mây ráng bơ vơ. Ông Khổng Lồ lo việc xếp đặt núi non cho có thứ tự. Sau khi xếp xong các dãy núi ở Bình Định, Khổng Lồ lựa hai hòn núi cân đối, quảy nhỏng nhảnh đi chơi.

Nhìn núi nhìn mây, cao hứng quên lửng gánh núi trên vai. Đòn gánh chích, đôi gióng nghiêng. Đôi núi lăn cù xuống đất. Núi rớt thình lình, Khổng Lồ vừa giựt mình vừa mất thăng bằng suýt ngã. Để khỏi té, ông liền bấm chặt một chân xuống đất, một chân bước dang ra trước mặt để chống. Tuy khỏi bị té ngã, nhưng bị cụt hứng, ông tức mình bỏ núi lại đó. Gánh gióng không mà đi đến nơi khác. Hai hòn núi bỏ lại đó là hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long (4).

Vì núi được sanh ra bởi ông Trời và bà Đất, nên ta phải leo lên núi cao thì mới thấy hết cái đẹp của trời đất: “Lẫn trong màu sắc của ruộng đồng mênh mông, từng chùm, từng khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của chợ quán, nhà cửa, chùa đền… hoặc ẩn hiện dưới bóng mây làn khói” (5). Cái giây phút ấy, thì những gì tù túng, chật chội của mặt đất dường như cũng tan biến hẳn. Ta có cảm giác rõ rệt là càng lên cao bao nhiêu thì con người cảm thấy mình là một với đất trời bấy nhiêu.

Rồi tại một hòn núi khác, Quách Tấn kể lại cảnh một nhà sư âm thầm cứu giúp con người: “Để giúp hành khách qua lại khỏi bị nạn cọp, nhà sư trụ trì tổ chức việc đưa đón hết sức nên thơ. Hành khách đến chân đèo thì dừng lại đợi nhau. Khi đã được năm ba người rồi, nhà sư đến đưa qua đèo. Không giáo không mác, không trống, không phèn la… nhà sư thong thả đi trước, tay gõ mõ miệng tụng kinh, hành khách nối đuôi nhau đi theo, khoan thai trật tự… Sang phía bên kia, nếu có khách thì nhà sư trở lại, đưa qua đèo. Cứ thế hết ngày này đến này kia. Ai cúng ít nhiều cũng được, không cũng không sao. Trước kia nạn hổ thường xảy đến. Từ khi có sự đưa đón của nhà chùa, người qua lại đều vô sự”.

Đối với chúng ta ngày nay, câu chuyện trên có vẻ hoang đường, không thực tế. Quách Tấn cũng biết vậy, nên ông đã viết: “Đó là chuyện cũ ngày xưa, ngày nay người không còn sợ cọp như trước, trái lại cọp phải sợ hẳn lòng người…” (6).

Cuối dãy Núi Bà có một ngôi chùa cổ gọi là chùa Ông Núi. Có nhiều truyền thuyết kỳ lạ kể lại hành tung của Ông Núi: Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, tham thiền nhập định suốt ngày đêm trong hang đá. Trong hang đá còn có hai con cọp mun hiền lành. Ông Núi ít khi đi đâu, chỉ khi nào cần lương thực thì Ông Núi mới gánh một gánh củi xuống để ở ngã ba đường. Người quanh vùng đem gạo muối xuống để đó, rồi gánh củi đem về nhà chụm. Chiều tối hôm sau, Ông Núi mới xuống lấy gạo muối, rồi lặng lẽ lên núi trở lại. Ông Núi tiếp tục sống như vậy trong nhiều năm, đến khi Trương Phúc Loan chuyên quyền, khắp nơi đều sống trong cảnh đói khổ loạn lạc. Một hôm những người tiều phu lên núi đốn củi, họ tò mò vào hang thì không còn thấy Ông Núi đâu nữa. Bấy giờ họ mới biết Ông Núi đã bỏ cái hang đó đi mất rồi, chẳng ai biết ông đi đâu?…

Hơn ba trăm năm sau (7), Quách Tấn đến viếng chùa và ông vẫn còn nghe được bước chân Ông Núi vang vọng khắp núi non: “Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng thật thà, đôn hậu, hát những câu hát về Ông Núi, khi thì thánh thót, như:

Cây che đá chất chập chùng
Biển giăng dưới núi chùa lồng trong mây
Bụi đời không gợn mảy may
Chút thân rộng tháng ngày dài thảnh thơi.

Khi thì ngầm chứa nỗi u hoài, như:

Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thủy

Đủ nhân đủ trí
Thêm vĩ thêm kỳ
Chùa xưa nhạt bóng tà huy
Xuôi lòng non nước nặng vì nước non (8).

Những tiếng “Núi cũ”, “Chùa xưa” đã được Quách Tấn lặp đi lặp lại nhiều lần trong thơ của ông, đã nói lên hết tất cả nỗi bơ vơ của ông khi phải sống trong thế giới hiện nay. Một thế giới đã gần như quên hẳn một Trần Thái Tông đã cùng với Đức Sơn Thiền Sư đứng ngắm trăng trước sân chùa Thanh Phong và nghe gió lùa qua núi vắng. Một Nguyễn Trãi ngậm ngùi tiễn Đạo Kiêm Thiền Sư về núi với lời chúc: “Về non ta lại có thiền tâm”.

3/

Trong một bài nhận định về thơ của Quách Tấn cách đây đã hơn ba chục năm, Phạm Công Thiện đã viết một câu hay tuyệt: “Tôi tưởng chừng những tiếng thơ trên đã phát xuất từ trung tâm điểm của vũ trụ, xa lắm, xa lắm” (9). Những tiếng “xa lắm, xa lắm” của anh Phạm Công Thiện dĩ nhiên phải được hiểu theo nghĩa bóng.

Dù vậy, có những bài thơ của Quách Tấn mà mỗi lần đọc lên, tôi khó có thể nghĩ rằng ông đã làm những bài thơ đó tại những thành phố có tên là Quy Nhơn hay Nha Trang hay tại bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam. Tôi có cảm giác ông là một ẩn sĩ đang sống tại một ngôi chùa cổ ở một thảo nguyên hay một hòn núi cao nào đó, xa hẳn chốn trần gian bụi bặm này. Vì chỉ trong cô đơn heo hút như vậy, thì ông mới lắng nghe hết cả cái buồn sầu thảm của vũ trụ mênh mông này:

Sông dài bãi vắng núi chênh vênh
Chùa khuất sau mây tiếng trống rền
Gió nước nôn nao lòng đãi độ
Lạnh lùng sương xuống bóng trăng lên

(Đọng Bóng Chiều)

Và tại nơi “thâm sơn cùng cốc”, trong một thoáng giây ngắn ngủi, Quách Tấn chừng như đã thấy được cánh cửa của vô hạn:

Thoáng tiếng chuông chùa vọng
Bóng đèn khuya rung rinh
Nao nao lòng giống quạng
Hơi thu tràn hư linh

(Mộng Ngàn Sơn)

Rồi tôi tưởng tượng rằng, một hôm nhà ẩn sĩ đó đã bị bắt buộc xuống núi trở lại. Dù sống giữa cuộc đời, nhưng lòng ông lúc nào cũng ngóng vọng về nơi chốn xa xôi ấy:

Mây nước nhiễm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân

(Mộng Ngàn Sơn)

Ông nhớ rõ từng lời kệ tiếng kinh, nhớ giọt trăng tà đọng lại trên hành lang heo hút của đêm sắp tàn nơi ngôi chùa cổ:

Lặng lẽ chiên đàn nhã khói hương
Trăng tà đôi giọt rụng lan can
Chùa xa riêng cảm đêm thu quạnh
Vần kệ ngân đưa giấc mộng tàn

(Đọng Bóng Chiều)

Và nhớ những chiều núi non sau cơn mưa còn đẹp hơn cả một giấc mộng:

Mưa tạnh non cao đọng bóng chiều
Hồi chuông chùa cũ vọng cô liêu

(Chưa xuất bản)

Hai câu thơ có sức hoài niệm lạ thường. Gần một thế kỷ đi qua trên cuộc đời này, ngoảnh nhìn lại chẳng còn nhớ gì hết, ngoài một chút núi non tịch mịch trong lòng của thi nhân mà thôi…

Chắc chắn những bài thơ trên của Quách Tấn không phải là sự rung động ngẫu nhiên hay nhất thời của một nghệ sĩ, mà nó đã được hun đúc sâu xa bởi một khát vọng. Khát vọng đó đã một lần được Quách Tấn phát biểu: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn sức tài ba trong nhất thời”. Đó là lời của Trần Tử Ngang mà tôi đã học thuộc lòng từ khi mới tập làm thơ. Ngày xưa tôi làm thơ là để lòng vào thiên cổ, như lời Trần Tử Ngang. Nhưng từ ngày tôi nhận thấy văn chương là một pháp môn, là một cái đạo, thì tôi làm thơ, viết văn để giải thoát tâm hồn” (10).

Thi ca, theo quan điểm của Quách Tấn làm một pháp môn, một cái đạo để ông giải thoát tâm hồn. Như vậy Quách Tấn đã đạt được khát vọng ấy trong thi ca của ông chưa? Đọc bài thơ sau đây ta sẽ rõ:

Mây thu chớp nhẹ cánh thư hồng
Hắt ánh tà huy trắng mặt sông
Bờ giạt sóng lau vờn ngọn bấc
Đợi đò lặng lẽ bóng sư ông.

Vậy, đúng như Phạm Công Thiện đã nói, thì: “Hiện nay Quách Tấn đã đi gần tới tiêu đích của mình” (11).

4/

Vào những tháng cuối năm 1975 và tiếp đến những năm 1976 và 1977, theo chỗ tôi biết, đó là những năm tháng buồn bã nhất trong cuộc đời của Quách Tấn. Bạn bè cũ, một số đã ra đi, một số còn ở lại thì sợ “tai vách mạch rừng” nên ít ai dám lui tới để trò chuyện, tâm sự, mặc dù có quá nhiều chuyện để mà tâm sự với nhau.

Lúc ấy anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở Nha Trang, chùa lúc ấy cũng chẳng còn chuyện gì để làm, nên anh Tuệ Sỹ và tôi vẫn thường xuống nhà thăm Quách Tấn, thỉnh thoảng ông cũng lên chùa thăm lại. Những lần viếng thăm như vậy đã an ủi tâm hồn ông rất nhiều, nhất là trong hoàn cảnh cô đơn và đầy bất an như lúc ấy. Một bữa nọ, anh trao cho anh Tuệ Sỹ và tôi một bài thơ:

Bạn thơ nay chẳng còn ai
Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư
Chung trà hớp ngụm vô tư
Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng

Riêng đối với Tuệ Sỹ, mặc dù tuổi tác khá chênh lệch nhau. Tuệ Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ, nhưng Quách Tấn vẫn một mực quý trọng tài hoa và nhất là tư cách của Tuệ Sỹ.

Tôi nhớ có một lần ông đã nói với tôi rằng, ở Việt Nam có hai tác phẩm viết về Tô Đông Pha (một đại thi hào đời Tống của Trung Quốc) – một của Nguyễn Hiến Lê và một của Tuệ Sỹ. Nhưng theo ông, Nguyễn Hiến Lê chỉ mới đứng từ xa mà nhìn ngọn Lê Sơn, còn Tuệ Sỹ mới đích thực vào được “thâm xứ” ấy. Quách Tấn là một nhà thơ, mà nhất là nhà thơ rành rẽ về thi ca Trung Quốc, thì lời nhận định của ông tất nhiên phải có giá trị lớn rồi.

Nhân đó, tôi cũng cho ông biết rằng, vì Tuệ Sỹ là một nhà thơ, một nhà thơ mà viết về một nhà thơ thì tất nhiên phải hay hơn một học giả viết về thi ca vậy. Quách Tấn rất đỗi ngạc nhiên khi biết Tuệ Sỹ cũng có làm thơ. Vì từ lâu ông chỉ biết Tuệ Sỹ là một nhà Phật học, một dịch giả vậy thôi.

Khi Đào Duy Anh lần đầu tiên từ Hà Nội vào Nha Trang đến thăm Quách Tấn, ông hỏi ý kiến Quách Tấn là ai là người mà ông nên đến thăm? Quách Tấn đã trả lời ngay: Tuệ Sỹ, chỉ có Tuệ Sỹ là người đáng thăm nhất. Và ông Đào Duy Anh đã leo núi lên chùa Hải Đức để thăm Tuệ Sỹ.

Trong cuộc trò chuyện hơn hai tiếng đồng hồ tại chùa Hải Đức, tôi vẫn còn nhớ là Đào Duy Anh đã tỏ ra rất tiếc khi ở ngoài Bắc mấy chục năm mà ông vẫn không có tác phẩm “Essay in Zen Buddhism” của D.T. Suzuki để đọc, đến khi vào Nam thì ông mới đọc được bộ Thiền Luận do Tuệ Sỹ dịch từ tiếng Anh của D.T. Suzuki, trong khi ông biết là tác phẩm đó đã chinh phục thức giả Tây phương từ lâu rồi.

Ông cũng công nhận là một sự muộn màng đáng tiếc. Khi tiễn xuống núi, ông cứ đi một đoạn là đứng lại bắt tay anh Tuệ Sỹ, những cái bắt tay thật chặt. Cứ như vậy ông bắt tay cho đến khi xuống cuối dốc chùa mới thôi. Điều ấy chứng tỏ rằng, Đào Duy Anh rất trân trọng về cuộc gặp gỡ này.

Sau đó, có lẽ vì không chịu đựng nổi không khí ngột ngạt ở thành phố nên Tuệ Sỹ đã đi làm rẫy tại một khu rừng hẻo lánh ở thị trấn Vạn Giã, gần đèo Cả, cách Nha Trang khoảng sáu mươi cây số. Đây là thời gian anh làm thơ nhiều nhất. Hầu hết những bài thơ nói lên tâm sự u uẩn của chính mình mà cho cả quê hương đất nước đều được anh làm tại nơi núi rừng heo hút này. Tỷ như:

Quê người trên đỉnh Trường Sơn
Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu

Hoặc:

Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương

Đúng là tâm hồn của kẻ sĩ, nếu có hờn có trách thì chỉ hờn trách chính mình thôi, còn đối với con người, đối với cuộc đời thì vẫn yêu thương nồng nàn. Làm rẫy một thời gian thì bỏ vào Sài Gòn, dấn mình vào một cuộc “Lữ” khác. Cuộc “Lữ” này trầm trọng hơn những cuộc “Lữ” trước đó. Ít lâu sau, Quách Tấn cũng rơi vào trường hợp tương tự, nhưng ông chỉ bị một thời gian ngắn thôi, có lẽ nhờ đã đến tuổi “thất thập cổ lai hy”.

Quách Tấn hiện đang đi chơi xa và không bao giờ trở về nữa. Tôi cứ tưởng tượng ông đứng nhìn một cây mai nở rộ trên một hòn núi cao nào đó, điều mà khi còn sống ông rất khát khao nhưng không bao giờ thực hiện được, như có lần ông đã đọc cho tôi nghe hai câu thơ của ông:

Tìm về núi cũ xem mai nở
Mộng bén ngàn xa hạc điểm canh

Còn Tuệ Sỹ thì vẫn chưa về…

Những lúc ngồi một mình nhớ Quách Tấn và Tuệ Sỹ, tôi cứ bâng khuâng tự hỏi: Tại sao có những người muốn đem hết cả tấm lòng của mình để hiến dâng cho cuộc đời mà họ vẫn bị cuộc đời đối xử một cách bất công? Vì tài hoa của họ chăng? Chữ tài đi liền với chữ tai một vần, như xưa nay ai cũng nghĩ như vậy? Theo tôi, quan niệm đó chỉ đúng một phần thôi, vì có biết bao nhiêu người tài hoa ở những nơi khác trên đời này, họ vẫn có hoàn cảnh, có điều kiện để đem tài hoa của họ ra mà hiến dâng cho cuộc đời.

Có một bài thơ của Quách Tấn, mà tôi nghĩ có thể tạm giải thích được. Ít nhất là trong trường hợp Quách Tấn và Tuệ Sỹ. Bài thơ ấy như thế này:

Bao phen bến hẹn đổi dời
Làng phong tao vẫn con người thủy chung
Gió lau thổi lạnh sóng tùng
Hương xưa thắm lại cụm hồng ngày xưa.

Phải chăng vì muốn “thủy chung” với “cụm hồng ngày xưa” ấy mà Quách Tấn và Tuệ Sỹ phải chấp nhận số phận lao đao của mình?

_______

Chú Thích:

Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình văn học, nhiều tác giả, NXB Trẻ, 1994 – trang 196, trang 279, (9) trang 90, (10) trang 266, (11) trang 103

Nước Non Bình Định của Quách Tấn, NXB Nam Cường – Sài Gòn 1967 (trang 35, trang 93, trang 267, trang 31-32)

Chùa Linh Phong. Hiện nay tháp để tưởng nhớ công đức của Ông Núi vẫn còn; Tháp hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư, được xem như vị tổ khai sơn của chùa

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: