Văn hào John Steinbeck và những dòng bút ký ở Pleiku

Ngày 7 Tháng Giêng năm 1967, giữa lúc chiến trường Việt Nam đang ngùn ngụt khói lửa, một người Mỹ đặc biệt xuất hiện tại Pleiku. Không phải tướng lãnh, cũng chẳng phải nhà ngoại giao, mà là John Steinbeck – văn hào lừng danh, giải Nobel Văn chương 1962, tác giả những tác phẩm bất hủ như The Grapes of Wrath (Chùm nho uất hận) hay Of Mice and Men (Chuột và Người). Ông không đến để tìm cảm hứng cho một cuốn tiểu thuyết, càng không đến để làm chính trị. Ông đến để tận mắt chứng kiến, để viết và để đồng hành cùng những người lính Mỹ, đồng minh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, trong cuộc chiến đầy cam go.

Trong nhật ký của mình, Steinbeck đã để lại một đoạn văn tuyệt đẹp khi bay trên chiếc trực thăng UH-1 Huey cùng Đại đội D, Chi đoàn 1, Thiết kỵ 10.

“Mấy ông phi công này làm tôi phát ganh tới mức ngứa ngáy cả người. Họ cưỡi trực thăng như kỵ sĩ điều khiển tuấn mã. Họ lách qua lòng suối, vọt lên như chim én vượt ngọn cây, rồi lại xoay lượn như bầy yến lúc hoàng hôn. Tôi nhìn tay chân họ, cái sự tinh tế phối hợp nhịp nhàng khiến tôi nhớ đến bàn tay Casals trên cây đàn cello. Họ thật sự là nhạc công, họ chơi cần lái như chơi nhạc, họ múa nó như ba-lê. Và tôi phát ghen vì khao khát được làm như vậy. Bạn còn nhớ giấc mơ thơ ấu về chuyến bay hoàn hảo – tự do và tuyệt diệu? Chính là như thế đó. Tiếc thay, tôi chẳng còn cơ hội, tay tôi đã quá già. Tôi đành đem nỗi thèm thuồng biến thành ngưỡng mộ và niềm vui tận mắt chứng kiến.”

Đoạn văn ấy, đọc lên như một khúc nhạc bay bổng, vừa cho thấy tài hoa ngôn từ của Steinbeck, vừa chứng tỏ tình cảm ông dành cho những phi công Mỹ đang cùng đồng minh Việt Nam giữ vững phòng tuyến tự do.

Sinh năm 1902 tại Salinas, California, Steinbeck trong một gia đình bình thường. Ông từng làm nông dân, công nhân, lao động tay chân – đủ mọi nghề để mưu sinh. Chính quãng đời lăn lộn đó đã bồi đắp cho ông vốn sống phong phú và cái nhìn nhân bản sâu xa. Từ Of Mice and Men đến The Grapes of Wrath, Steinbeck đều viết về thân phận con người bé nhỏ, về sự khốn khổ lẫn niềm hy vọng trong cơn lốc của kinh tế và xã hội.

Năm 1940, The Grapes of Wrath đoạt giải Pulitzer. Đến năm 1962, Steinbeck nhận giải Nobel Văn chương, được vinh danh là “nhà văn hiện thực xã hội, với những tác phẩm kết hợp trí tưởng tượng cảm thông và sự quan sát sắc sảo.” Ở thời điểm đó, Steinbeck là niềm tự hào của văn học Mỹ, đứng vào hàng văn hào quốc tế.

Điều khiến Steinbeck khác hẳn nhiều văn nghệ sĩ Mỹ cùng thời là thái độ của ông đối với chiến tranh Việt Nam. Trong khi phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ rầm rộ, với những cuộc biểu tình, những khẩu hiệu đòi rút quân, thậm chí có kẻ nguyền rủa đồng minh và xem thường sinh mạng của người lính Mỹ, thì Steinbeck lại chọn con đường khác.

Ông không mù quáng ca tụng chiến tranh, nhưng ông hiểu rằng người lính Mỹ đã đến Việt Nam để bảo vệ một lý tưởng: tự do và đồng minh. Ông từng viết thư cho bạn bè, bày tỏ rằng mình muốn có mặt cùng binh sĩ, để chia sẻ gian lao và để tường thuật trung thực. Ông đứng về phía những chàng trai trẻ, nhiều người chưa tròn đôi mươi, đang đối diện cái chết nơi rừng núi cùa một đất nước xa xôi. Đối với Steinbeck, bỏ rơi họ mới là phản bội, còn phản chiến một cách cực đoan, phỉ báng nỗ lực của họ, thì đó là một sự vô ơn và hèn nhát.

Trong khi báo chí Mỹ thời ấy nhiều khi chỉ đưa tin theo kiểu giật gân, hoặc bị chi phối bởi làn sóng phản chiến, Steinbeck lại chọn cái nhìn nhân văn. Ông mô tả người lính Mỹ như những “nhạc công trong buồng lái trực thăng”, những người bình dị nhưng anh hùng, đối diện hiểm nguy từng giây phút.

Ở điểm này, cần nhấn mạnh: thái độ của Steinbeck đối với Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn đối lập với phong trào phản chiến. Phong trào ấy, dưới danh nghĩa “hòa bình”, đã góp phần khiến chính giới Mỹ quay lưng, bỏ rơi miền Nam trong giờ phút sinh tử. Còn Steinbeck, với đôi mắt của một nhà văn và trái tim của một công dân trung thực, nhìn thấy trách nhiệm và nghĩa vụ của Hoa Kỳ đối với đồng minh.

Đó cũng chính là điểm son trong nhân cách Steinbeck. Ông không hùa theo số đông để kiếm danh tiếng hão, cũng chẳng vì sự dễ dãi của dư luận mà chối bỏ trách nhiệm. Ông chọn lẽ phải, dù biết rằng quan điểm của mình có thể bị cô lập giữa dòng thác phản chiến. Và chính vì thế, Steinbeck đáng để ta kính trọng, không chỉ như một nhà văn lớn, mà còn như một công dân Mỹ có bản lĩnh.

Có người sẽ nói: “Nhà văn thì lo viết văn, dính dáng chi tới chính trị, chiến tranh?” Nhưng thử hỏi: một nhà văn mà không nói về những con người đang hy sinh ngoài mặt trận, thì ông ta còn xứng đáng là chứng nhân của thời đại không? Steinbeck hiểu điều đó. Ông không viết những bản hùng ca rỗng tuếch, mà viết bằng cái nhìn của kẻ từng làm nông dân, từng trải qua nhọc nhằn, để rồi cảm thông và ngưỡng mộ người lính.

Cũng có kẻ trách Steinbeck “đứng về phe chiến tranh.” Nhưng sự thật, ông đứng về phía người lính. Và chính vì bênh vực người lính, ông bênh vực luôn lý tưởng của tự do, cũng như mối tình đồng minh Việt–Mỹ. Nếu không có những tiếng nói như Steinbeck, lịch sử sẽ bị lấp đi bởi tiếng ồn ào của những cuộc xuống đường phản chiến, mà kết cục ai cũng biết: miền Nam bị bỏ rơi, hàng triệu người dân rơi vào cảnh tù đày, vượt biên, chết trên biển cả.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, đọc lại những dòng Steinbeck viết ở Pleiku, ta thấy một văn hào lớn của Mỹ đã kịp để lại dấu ấn của mình trong cuộc chiến Việt Nam. Không phải bằng súng đạn, mà bằng ngòi bút, bằng ánh mắt ngưỡng mộ và bằng tình cảm chân thành đối với những chiến sĩ trẻ.

Giữa lúc nhiều văn nghệ sĩ phương Tây chạy theo phong trào phản chiến, Steinbeck vẫn chọn đứng bên cạnh đồng minh. Ông không phản bội, ông không bỏ rơi, ông không quên ơn. Và vì vậy, Steinbeck xứng đáng được hậu thế VNCH nhớ đến, không chỉ như một Nobel văn chương, mà còn như một người bạn trung thành trong những năm tháng bi thương của đất nước chúng ta.

(Melbourne)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: