1979: Một cuộc chiến đẫm máu, bị cố chôn vùi từ hai phía (phần 1)

Ghi nhớ cuộc xâm lược của Trung Cộng vào Việt Nam
Chuẩn bị tiến vào đất Việt Nam để “tự vệ” (Ảnh: Undergound China)

Trong cuốn tiểu thuyết “Những người đồng đội đoàn tụ” (战友重逢) xuất bản năm 2001 của người đoạt giải Nobel Mo Yan (Mạc Ngôn), một binh sĩ Trung Quốc – Qian Yinghao – đã thú nhận tham vọng trở thành anh hùng thời chiến hơn là người lính thời bình. Kết quả là ông rất phấn khởi khi được đưa ra tiền tuyến – trong sự tuyên truyền của Bắc Kinh về cái gọi là  “cuộc phản công tự vệ” chống lại bọn xâm lược Việt Nam. Một cuộc chiến mà cả hai bên đều sử dụng vũ khí Trung Quốc. Người lính Qian Yinghao đã mơ mộng về cuộc chiến: Sống sót trở về sẽ mang theo vinh quang; còn nếu bị giết, cha mẹ nghèo khó của anh ta sẽ có thêm tiền cấp dưỡng.

Tuy nhiên, chả có vinh quang nào, anh lính Trung Quốc ấy đã chết mà không hề nhìn thấy kẻ thù nào ở phía Nam. Anh và nhiều hồn ma khác chợt nhận ra rằng trong cuộc chiến này, hầu hết binh lính đều chết trong im lặng và chỉ một số ít được tôn vinh là anh hùng. “Hầu hết những người như bạn và tôi đều chết trong vô danh. Có người chết cóng, có người chết đói, có người chết đuối dưới sông, có người bị chó cắn, có người chết vì bệnh tật…”

Đáp lại, người đồng đội của anh nói: “Tôi buồn cho anh, không phải vì anh chết mà vì anh chết một cách oan uổng. Ông có tài quân sự, thể lực tốt, đầu óc minh mẫn và có đức tính anh hùng, nhưng đã chết một cách lặng lẽ.”

Cuốn tiểu thuyết cũng mô tả những tiếng kêu nhức nhối từ hồn ma của những người lính Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến năm 1979, vào lúc nghe tin hai kẻ thù Trung – Việt đột nhiên bình thường hóa quan hệ. Mối quan hệ ngoại giao này khiến những người được lệnh bảo vệ đất nước của họ trở nên vô hình. Tâm hồn họ không thể bình yên ngay cả khi chết.

Đằng sau cuốn sách của Mạc Ngôn là một sự thật: Ở Trung Quốc, các cựu chiến binh và gia đình của những người lính tử trận không có chỗ để thương tiếc những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh Trung-Việt, vốn được cố ý che đậy. Mạc Ngôn đành phải dùng đến tiểu thuyết văn học để phá vỡ sự im lặng, vì công luận không được phép tranh luận công khai về cuộc chiến tranh hủy diệt này.

Trên trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bài tổng quan về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam chỉ đề cập đến việc quan hệ này xuống dốc trong khoảng thời gian từ những năm 1980 đến những năm 1990, chứ không nêu rõ nguyên nhân đằng sau sự gián đoạn. không có thông tin rõ đề cập đến cuộc chiến này. Trong khi Trung Quốc đề cập đến các cuộc chiến tranh biên giới khác nhau của mình trong các bối cảnh khác – bao gồm cả cuộc chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, được biết đến trong tiếng Trung là “cuộc phản công biên giới tự vệ chống lại Ấn Độ” (中印边境自卫反击) và cuộc chiến tranh Trung-Nga năm 1969, được gọi theo cách khác như “cuộc phản công tự vệ tại đảo Bảo Chấn” (珍宝岛自卫反击战), nó hầu như không đề cập đến cái gọi là “cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam” (对越自卫反击战), tên của Trung Quốc dành cho cuộc chiến Trung-Việt.

Cuộc chiến bất ngờ, ngắn ngủi và đẫm máu giữa những đồng chí

Năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – khi đó mới được một tuổi – là nước đầu tiên công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lãnh đạo. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận nước CHND Trung Hoa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mối quan hệ giữa các đảng vẫn là trọng tâm trong mối quan hệ.

Trung Quốc là nhà cung cấp viện trợ lớn nhất cho miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại quân đội Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ thời chiến này không bao giờ là vô điều kiện. Kể từ năm 1965, viện trợ của Trung Quốc phụ thuộc vào sự thỏa hiệp về chính trị và ý thức hệ của Hà Nội: Việt Nam sẽ phải công nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc ở Đông Dương và sự tham gia vào công việc đối ngoại của Việt Nam, bao gồm cả việc tiếp nhận viện trợ tinh vi của Liên Xô. Trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cung cấp vũ khí cho Việt Nam thì Liên Xô lại đề nghị hỗ trợ trên diện rộng.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư thân Liên Xô Lê Duẩn, Việt Nam dần dần xa rời Trung Quốc. Các cuộc giao tranh ở biên giới với Trung Quốc bắt đầu từ năm 1973 trở đi. Số vụ đụng độ biên giới Trung-Việt tăng gấp 4 lần từ 100 vụ năm 1974, lên 400 vụ năm 1975, và tăng lên 900 vụ năm 1976.

Vào giữa năm 1976, Hà Nội đưa ra chính sách đồng hóa Trung Quốc ở Việt Nam và bắt đầu quốc hữu hóa các “doanh nghiệp” thuộc sở hữu của cái mà họ cho là “giai cấp tư sản tư bản” ở miền Nam Việt Nam, những người được cho là đang đe dọa quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Chính sách này chủ yếu nhắm vào người Hoa (dân tộc Hoa) – một nhóm thiểu số đặc quyền ở Việt Nam.

Ngoài ra, vào những năm 1970, Hà Nội cũng can thiệp vào chương trình giảng dạy tại các trường học của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam, cấm nội dung được coi là biểu hiện của “chủ nghĩa dân tộc duy tâm phản động”. Chế độ Hà Nội cáo buộc Bắc Kinh lợi dụng vấn đề người Hoa, phần lớn tập trung ở vùng biên giới, để phá hoại xã hội Việt Nam. Cuộc di cư lớn của người Hoa trở lại Trung Quốc năm 1978 là lý do chính thức khiến Bắc Kinh chấm dứt viện trợ cho Việt Nam.

Với việc Việt Nam lựa chọn xích lại gần hơn với Liên Xô, Trung Quốc trở nên ít có khả năng can thiệp và tác động đến các quyết định của Hà Nội. Như nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, Đặng Tiểu Bình, đã giải thích về cuộc xâm lược năm 1979: “Việt Nam là một đứa trẻ không nghe lời và cần phải bị đánh đòn”.

Poster tuyên truyền chiến tranh của Trung Cộng

Cuộc chiến khiến Việt Nam mất cảnh giác, vì Đặng đã đồng ý với Lê Duẩn vào năm 1977 để bắt đầu đàm phán về các vấn đề biên giới. Ba vòng đàm phán mà Việt Nam khởi xướng năm 1979 với phía Trung Quốc đã không thành công. Trong khi đó, bất đồng về vấn đề Campuchia cũng gây ra căng thẳng. Việt Nam ủng hộ chính phủ nước này đã thành lập ở Phnom Penh sau cuộc xâm lược vào tháng 12 năm 1978, trong khi Trung Quốc ủng hộ liên minh du kích ba bên, trong đó có Khmer Đỏ.

Đặng đã phát động một cuộc chiến tranh lớn chống lại Việt Nam vài ngày sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.

Theo cuốn sách “Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu Bình: Xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991” của Xiaoming Zhang, cuộc chiến gồm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ ngày 17 đến 25/2/1979) quân Trung Quốc chiếm thành công thị xã Cao Bằng, Lào Cai và một số thị xã biên giới Lạng Sơn. Giai đoạn thứ hai (từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3) là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng lân cận ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc. Giai đoạn cuối cùng (đến ngày 16/3) nhằm đánh bại lực lượng còn lại của Việt Nam đồng thời tiêu diệt các cơ sở quân sự ở khu vực biên giới.

Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), tuy có kinh nghiệm chiến đấu khá lớn nhưng thiếu kinh nghiệm chiến đấu so với quân đội Việt Nam đang trải qua thực chiến, đã rút lui nhanh chóng. Trong khi cuộc xung đột vũ trang lớn kéo dài chưa đầy một tháng, giao tranh vẫn tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1980.

Tuyên truyền trong nước của Trung Quốc về chiến tranh

Theo quan điểm của Bắc Kinh, hành vi sai trái của Việt Nam đối với Trung Quốc sau năm 1975, thể hiện qua tranh chấp biên giới và chính sách chống Hoa, đã phản bội nguyên tắc cơ bản của quan hệ anh em Trung-Việt. Theo cuốn sách năm 2011 “Chiến tranh trừng phạt: Quân giải phóng kích hoạt các hoạt động phòng vệ chống Việt Nam” của Wang Lili, ý định trừng phạt đã được Đặng bày tỏ trong chuyến thăm Nhật Bản năm 1978: “Trung Quốc cần phải trừng phạt mạnh mẽ Việt Nam ” bởi vì “Trung Quốc không thể chịu đựng được nữa.”

Với chiến tranh, Trung Quốc tìm cách củng cố quan điểm lấy Trung Quốc làm trung tâm của thế giới, vốn coi các quốc gia nhỏ ở ngoại vi Trung Quốc, bao gồm cả Việt Nam, là thấp kém và nằm trong quỹ đạo chính đáng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sự bất cân xứng về quy mô và sức mạnh đã định hình mối quan hệ giữa hai nước trong nhiều thế kỷ. Trong quá khứ, các nhà nuớc phong kiến Việt Nam tự xưng là hoàng đế trong nước, nhưng ra vẻ tôn kính với các hoàng đế phương Bắc – mặc dù đã đánh dập thẳng về mặt quân sự. Sự “vô ơn” của Việt Nam đối với viện trợ trị giá khoảng 20 tỷ USD của Trung Quốc, sự “xấc xược” và thậm chí không phục tùng của Việt Nam đã báo hiệu sự từ chối tiếp tục tuân thủ mệnh lệnh do Trung Quốc áp đặt.

Kết quả là Đặng, kiến trúc sư trưởng của cuộc chiến chớp nhoáng, muốn dạy cho “người em đồng chí” một bài học. Tuy nhiên ngược lại, Đặng và Trung Quốc cũng đã học được nhiều bài học đắt giá, mặc dù chiến tranh không gây ra những hậu quả quốc tế đáng kể cho Trung Quốc. Đây chắc chắn không phải là một không được ca ngợi trong lịch sử của PLA, lực lượng đã huy động hơn 1/4 quân đội dã chiến của mình hoặc tổng cộng hơn 320.000 quân nhưng hầu như không có tác dụng gì.

Sự giận dữ của Đặng đến mức ông quyết tâm củng cố quân đội. Trong vài năm tiếp theo, hàng trăm ngàn lính nghĩa vụ dưới mức bình thường đã bị đưa về nước.

—————

Tài liệu gốc bởi nhà nghiên cứu chính trị Đông Á, Christelle Nguyễn, cây viết quen thuộc của Nikkei Asia, Asia Times, SCMP… (How the Sino-Vietnamese War Was Purposefully Forgotten, In both China and Vietnam, the governments have deliberately tried to bury memories of their 1979 war))

—————

(Xem tiếp phần 2: 1979: Sau chiến thắng, lại van xin được làm đàn em cộng sản)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: