Truyện ngắn-Đĩ cầu Nôm

(Hình minh họa: Aaron Burden/Unsplash)

Đậu mới ngồi xuống , vừa đủ ‘ngũ gàn’ của chiếu rượu chiều thứ bảy thì lão Trần đã căng thẳng:

-Các ông đọc bài hát nói ‘Đĩ Cầu Nôm’ của cụ Nguyễn chưa?

Lê vốn nghiền ngẫm đủ kinh sách liền trả lời:

-À! Bài này cụ viết đầu thế kỷ 20 sau vụ cô Tư tổ chức khao làng nhân được triều đình Huế tặng cho bốn chữ ‘Tứ phẩm nghi nhân’ phải không?

Trần gật đầu, mặt còn sắc giận:

-Vậy ‘đĩ’ là gì các ông thử nói coi?

Đậu tưng tửng:

-Thì từ điển định nghĩa sẵn: ‘đĩ là người phụ nữ làm nghề mại dâm’ ai mà không biết.

Lại Trần:

-Vậy cụ biếm nhẻ cô Tư như thế có đúng không?

Phạm nâng ly:

-Chuyện đúng sai hơi khó đây. Thôi nâng ly lên đã rồi ta trao đổi thử nha.

Chiều xuân còn níu giữ những cánh hoa hồ điệp đẹp nao lòng, rượu quý, bạn hiền, một trời thơ văn nhưng mấy lão này cứ lẩn quẩn vào việc thế thái nhân tình tốt xấu như một lũ trời đày.

Ai mà không biết xã hội ta những năm 1880 ấy nó lạc hậu và bất ổn như thế nào. Tuyệt đại đa số nhân dân làm nông, “phi nông bất ổn” mà, công, thương gần như số không. Hầu hết nông dân là tá điền, nghèo rớt mồng tơi, cả đời là con nợ của bọn địa chủ, hương lý của làng. Bắc kỳ từ xứ bị Pháp bảo hộ đến năm 1887 chúng trực tiếp quản lý nhà nước như Nam, Trung kỳ.

Nhưng lạ thay ở đất Hà Nam lại có một phụ nữ gây chấn động cả xứ Bắc. Năm 1885, mới 17 mà cô Trần xinh đẹp đã rừng rực xuân tình, người lẳng chắc, khiêu gợi lại mạnh mẽ, lanh lẹ, cái háo dâm đã lồ lộ cộng với đôi mắt ‘nhãn trung hữu thuỷ’ quyến rũ chết người. Gã Lý trưởng làng mặc dù đã nhiều nhân tình nhân ngãi nhưng cũng mê cô như điếu đổ. Cha cô – một nam nhân vốn dòng võ nhưng theo đòi bút nghiên, từng là thơ lại của Hoàng Tổng đốc; năm 1882 sau vụ Pháp chiếm thành Hà liền bỏ về quê cày ruộng, mang nghiệp phong lưu nên nợ như chúa Chổm, bèn gả phắt cho gã Lý trưởng làm thiếp để trừ món nợ mà ông không thể trả nổi.

Gã sợ vợ Cả như cọp, cô như đầy tớ trong nhà, mọi việc đều vào tay cô. Vài đêm gã lén vợ mò đến, vội vội vàng vàng gây thêm cho cô nỗi thèm khát vì không được thoả mãn cái nhu cầu bản năng cao độ.

Ngẫm nghĩ cô thấy mình chẳng được gì, không lẽ chôn vùi một đời nhiều ham muốn hơn người đang thôi thúc trong lòng, cô bỏ trốn, xuôi về thành Nam. Để có ăn, ở cô đành gá nghĩa với một anh hàng xáo keo kiệt, lại quần quật lao động nhưng trong tay chẳng có một xu kẽm, chỉ được tạm thoả mãn cái ham muốn trời đày.

Một tay Hoa kiều ôm túi bạc rủng rỉnh từ cảng lên thành Nam thu mua lúa để xuất bán cho tàu buôn Trung Hoa. Hắn vào ăn xáo và chết đứng khi nhìn thấy cô, ‘tiếng sét ái tình’ đã nháng vào người hắn, nỗi si mê dâng ngút, hắn cần cô và cô cần một đời khá giả. Hắn bù cho anh hàng xáo ít tiền, dẫn cô về nhà trả món nợ cho gã lý trưởng, làm một lễ cáo gia tiên cho chính danh rồi dẫn cô – bà  ba Hồng xuôi về biển.

Mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, cũng có dăm chữ từ cha bày bảo, bà là một tay giúp chồng đắc lực và đã học ở ông chồng kinh doanh những thủ thuật bán buôn. Hắn bị đồng hương lừa một cú to mất vốn, nợ không thể trả, đành trốn về cố hương bỏ bà vợ ba trẻ đẹp bơ vơ nơi đất khách.

May mà cô cũng dành dụm được một ít tiền, thuê nhà mở quán bán tạp hoá độ nhật. Hữu duyên lại gặp người bạn thân khi ở thành Nam, ả là me Tây theo chồng xuống cảng xuất bán hàng hoá, thấy thương bạn liền rủ cô lên thành Hà – trung tâm của cả xứ Bắc này kiếm đường làm ăn.

Đêm dạ hội mừng Quốc Khánh nước mẹ Đại Pháp năm 1892 cô bạn kéo cô đến dự, gã quan Tư phụ trách hậu cần cho quân đội Pháp gặp và mê đắm. Họ thành chồng vợ, cô Hồng khi ấy mới 24, được gọi là bà Tư.

Năm sau bà thành lập công ty tư nhân. Là công ty đầu tiên của nước Đại Nam do một phụ nữ gốc gác nông dân của An Nam làm Giám đốc. Công ty bà đã thắng thầu công trình phá dỡ thành Hà trước 2 công ty của Pháp và 2 công ty Hoa kiều và hoàn thành trước thời hạn 6 tháng, kèm theo là khu đất Cửa Đông với 2 dãy phố tráng lệ mọc lên ngạo nghễ. Bà giàu sang, nổi tiếng khắp nước, báo chí Pháp hết lời ca ngợi nhưng dư luận vùng ấy dè bỉu nhiều điều cay nghiệt.

-Thế trong quá trình làm vợ cho từng ông chồng, bà ấy có phải là mại dâm không ta? Sao mà cụ Nguyễn gọi bà là đĩ nhỉ? Trần nhăn nhó.

-Chà chà… Giới sĩ phu ta học theo Tàu mà xơ cứng hơn cả họ. Đậu khủng khỉnh:

– Quan điểm sai be bét và nặng nề lắm. Vì thế nước ta chậm tiến nhất thế giới đó mấy ông.

Mấy lão nhìn y dò hỏi:

-Thế Tàu nó thế nào ông?

-Dõng tai mà nghe cho rõ đây. Từ thời Hán Vũ đế, tức khoảng 100 năm trước Công nguyên, quản lý xã tắc theo chủ trương Hán Nho của ông Đổng Trọng Thư mà Hán đế đã cho thành lập kỹ viện hoạt động công khai. Ông vua ấy còn cho phụ nữ dựng lều dọc đường hành quân để bán dâm cho quan quân vui thú. Kinh hồn chưa?

Lê nhanh nhẩu:

-Chắc là cụ quá biết chuyện nàng Hạ Cơ nước Trịnh thời Xuân Thu khoảng 500 năm trước Công nguyên quá đi chứ? Trần Linh công và 2 ông quan cùng chung giường chiếu với nàng, Linh công bị con nàng bắn chết, sau ông thế tử vẫn được nối ngôi, quan dân có phản ứng gì đâu?

Phạm tiếp:

-Nói đâu xa, thời chúa Thượng lấy Tống thị là chị dâu, rồi đến ông em. Loạn. Sao không lên án, hay sợ? Tội, bà Tư là dân đen nhờ giỏi, khác người và mạnh mẽ mà ngoi lên thì dư luận hà rầm.

Cả bọn lặng thinh một lúc như cùng oán trách lớp sĩ phu cứ khư khư không học đến nơi đến chốn làm suy yếu nước nhà. Lão Trần chợt kể tiếp:

-Bà giàu có lại không con nên thường làm từ thiện. Năm ấy tỉnh Thừa Thiên bị lũ lụt, bà cho chở 3 tàu lúa vào cứu trợ, triều đình trân trọng công đức ấy nên phong cho bốn chữ nêu trên; thời phong kiến họ nhớ công ơn người sinh dưỡng ra người có công với nước nên phong cả chức tước cho họ, cha bà được phong ‘Hàn lâm thị độc’. Nên nhớ lúc ấy đức Thành Thái đang tại vị, ngài là người không dễ ban thưởng cho ai, ngay cả khi cầu Long Biên xây dựng xong năm 1902, Phụ chính đại thần Hoàng Cao Khải dâng lên một danh sách xin nhà vua ban thưởng cho những người có công, ngài cười nhạt: “Ta có biết mặt mũi những đứa nào đâu.”

Thế mà cả xứ ấy như sôi lên, dèm pha đủ thứ đến cả cụ Nguyễn cũng tin. Ngày nhà bà tổ chức lễ mừng cụ viết cho câu đối:

Tay trắng làm nên, có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng hăm sáu tỉnh.

Má hồng gặp vận, nào biển, nào cờ, nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người.

Nhiều người biết câu tục ngữ: Làm đĩ có tàn, có tán, có án thờ vua nên biết cụ chửi khéo bà là con đĩ. Và bà ấy sống trong sự khinh bỉ, cô đơn và chết trong lặng lẽ.

Cả bọn chép miệng, lòng đầy thương cảm một nữ lưu nước nhà sống trong cảnh “bất phùng thời.” Chai rượu Ama Công của lão bạn tận Tây Nguyên gởi tặng còn hơn một nửa.

(Vanchuongviet.com)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Oán thấu trời xanh
Mưa bão lũ lụt vốn là chuyện muôn đời, là thiên tai vẫn xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Hậu quả của thiên tai thật vô cùng tang thương…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: