Pháp bất ngờ quyết định công nhận nhà nước Palestine.
Quyết định này đã tức thì vấp phải sự phản đối quyết liệt của Mỹ và Israel. Washington cho rằng “sự thiếu suy nghĩ” của Paris chỉ phục vụ cho tuyên truyền của Hamas, làm thụt lùi tiến trình hòa bình. Còn Tel Aviv cho rằng động thái của Paris sẽ tạo ra một tiền đồn mới của Iran, và rằng một nhà nước Palestine trong điều kiện hiện nay sẽ trở thành bàn đạp để tiêu diệt Israel. Theo Thủ Tướng Israel Benjamin Netanyahu, Palestine không tìm kiếm một nhà nước bên cạnh Israel, mà chỉ tìm kiếm một nhà nước thay thế Israel.
Trước đó, Na Uy, Tây Ban Nha và Ireland đã công bố ý định công nhận nhà nước Palestine. Đến nay đã có ít nhất 142 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc công nhận hoặc lên kế hoạch công nhận nhà nước Palestine.
Về phần mình, phe Hamas coi việc Pháp công nhận nhà nước Palestine là “bước đi tích cực và đúng hướng.” Chính quyền của ông Mahmud Abbas cho rằng điều này phản ánh cam kết của Pháp đối với pháp luật quốc tế và sự ủng hộ quyền tự quyết cũng như việc thành lập một nhà nước độc lập của người Palestine. Ả Rập Saudi thì đánh giá cao “quyết định mang tính lịch sử” của Pháp, đồng thời kêu gọi những nước chưa công nhận nhà nước Palestine có bước đi tương tự.
Với những người chống đối giải pháp hai nhà nước, kịch bản hai nhà nước khó thành hiện thực khi người Palestine không công nhận quốc gia Do Thái. Và rằng ngay cả khi họ công nhận thì người Palestine vẫn tỏ ra chưa có đủ năng lực trong việc quản lý một nhà nước của riêng mình.
Trước động thái này của Paris, thiết tưởng cũng nên đi ngược dòng thời gian để nhìn lại vấn đề hai nhà nước. Năm 1939, tại Hội nghị Luân Đôn, người Ả Rập yêu cầu tuyên bố rằng “Palestine là một nhà nước Ả Rập có chủ quyền, trong đó người Do Thái sinh sống như một nhóm thiểu số.” Năm 1947, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 181, ủng hộ giải pháp hai nhà nước. Các quốc gia Ả Rập tại LHQ đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết này. Năm sau, khi Israel tuyên bố độc lập, nhiều đội quân Ả Rập đã xâm lược quốc gia non trẻ này nhưng bại trận. Người Ả Rập gọi sự bại trận của họ là Nabka, tiếng Ả Rập nghĩa là Thảm họa. Từ “thảm họa” này, người Ả Rập bị di dời khỏi vùng Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Beirut năm 2002, Liên đoàn Ả Rập, thông qua Sáng kiến Hòa bình Ả Rập, chính thức chấp nhận Nghị quyết 181 của Đại Hội Đồng LHQ. Năm 2005, Thủ Tướng Israel là Ariel Sharon đã trao trả Dải Gaza cho tổ chức PLO mà đứng đầu là ông Mahmud Abbas và chính phủ của ông, đồng thời nhượng lại nhiều khu vực hơn ở Bờ Tây, cho phép người Palestine quản lý tới 40% lãnh thổ năm 1967, thời điểm nổ ra Cuộc Chiến Sáu Ngày với chiến thắng của Israel và với chiến thắng đó, Israel đã chiếm đóng Đông Jerusalem và Bờ Tây cũng như phần lớn Cao nguyên Golan của Syria, Dải Gaza và bán đảo Sinai của Ai Cập.
Nhưng năm 2007, sự yếu kém của chính quyền Abbas khiến Gaza rơi vào tay lực lượng Hamas. Trong vụ này, phe Hamas đã sát hại 350 người thuộc tổ chức PLO của ông Abbas. Hai khối Palestine, mỗi khối nắm giữ 1/3 số người Palestine hiện nay, đã không tổ chức bầu cử kể từ đó. Với việc không có một nhà lãnh đạo mạnh mẽ rõ ràng nào của người Palestine, cơ hội thành lập một nhà nước Palestine gần như bằng 0.
Có thể nói tình trạng người Palestine chia rẽ nhau như hiện nay là điều mà Israel mong muốn. Bởi một Palestine suy yếu, thiếu đoàn kết là điều có lợi cho Israel. Vào lúc này, Tel Aviv tỏ ra không muốn lặp lại việc rút quân đơn phương như năm 2005, vốn đã biến Gaza thành một doanh trại của kẻ thù. Với Israel, vụ rút quân khỏi Gaza năm 2005 là một sai lầm nghiêm trọng mà đã dẫn tới vụ Bảy Tháng Mười. Xem ra với Israel, giải pháp khả thi nhất vẫn là một thỏa thuận tạm thời về quyền tự quản của người Palestine kết hợp với hoạt động của cảnh sát Israel.
Ở đời, ai cũng có cái lý của mình. Và nói gì thì nói, người ta phải thừa nhận cái chân lý bất di bất dịch rằng lý của kẻ mạnh bao giờ cũng mạnh. Trong trường hợp này, kẻ mạnh là Israel, kẻ yếu là Palestine. Việc đa số quốc gia thành viên LHQ công nhận nhà nước Palestine chỉ mang ý nghĩa biểu tượng nhiều hơn là thực tiễn.




























