Nếu có ai hỏi: vì sao một dân tộc hiền lành có thể bị tận diệt chỉ vì lòng tin và phép lịch sự, thì xin mời đọc câu chuyện người Moriori bên đảo Chatham, New Zealand.
Moriori là một nhóm người Polynesia, cùng gốc với người Māori, tổ tiên vốn là dân vượt biển. Một nhánh cập bến đảo chính New Zealand, nơi đất đai trù phú, sinh sống rồi lập thành bộ lạc hùng mạnh, phát triển nông nghiệp, tập luyện chuyện binh đao.
Một nhánh khác trôi dạt đến quần đảo Chatham, nơi đất xấu, lạnh, hiếm tài nguyên – họ chọn sống hòa thuận, không đánh nhau, không luyện võ, không rèn gươm. Họ lập ra một xã hội cộng đồng nhỏ, ít của nhưng nhiều tình người. Đụng chuyện thì xê xoa cho qua, “đất trời có bao nhiêu thì chia nhau sống bấy nhiêu.”
Trớ trêu thay, chính cái lòng hiếu khách đó lại là nguyên do khiến họ diệt vong. Khi người Phương Tây mang súng ống qua bán cho dân Māori, những chiến binh kia liền vượt biển sang Chatham. Người Moriori ra đón với ca hát, lễ vật, tấm lòng bao dung. Nhưng thay vì đáp lại bằng nghĩa tình, người Māori tuyên bố: “Chúng tôi không đến để cùng sống. Chúng tôi đến để làm chủ.”
Chỉ trong vài tháng, hơn 2,000 người Moriori bị tàn sát. Số còn lại bị bắt làm nô lệ. Cả một nền văn hóa bị xóa tên khỏi lịch sử, chỉ vì quá tin vào lòng nhân từ tử tế.
Tôi đọc sao thấy chuyện xưa đất Chatham cũng giống như chuyện Việt – Việt thời cận đại. Một đất nước hình chữ S, cùng máu đỏ da vàng, bị chia hai theo hai lối sống khác biệt.
Miền Bắc, nghèo khổ, khắc nghiệt, phải đấu tranh với thiên nhiên, buộc phải đoàn kết chặt, kỷ luật sắt, lấy ý chí tập thể làm đầu. Miền Nam, khí hậu ôn hòa, ruộng vườn trù phú, đời sống rộng mở, dân tình thiên về học hành, đạo lý, thương mại, văn chương. Một bên luyện gươm đề xâm lược. Một bên uống trà đọc sách. Một bên xem chiến tranh là phương tiện chính trị để lừa đảo cứu cánh biện minh cho phương tiện. Một bên tin vào hiệp ước và quốc tế công pháp.
Và rồi, như một định mệnh đã viết lại từ bên kia bán cầu, chiếc thuyền thép Cộng Sản Bắc Việt cập bến phương Nam. Sau Hiệp Định Genève 1954, đất nước chia đôi. Người dân hai miền, thay vì được sống yên bình, lại trở thành con tốt trong ván cờ ý thức hệ toàn cầu.
Miền Nam, dưới danh nghĩa “Việt Nam Cộng hòa” xây dựng thể chế cộng hòa, mở cửa học thuật, tự do tôn giáo, pháp trị tam quyền phân lập, nhưng đồng thời phải chống chọi với chiến tranh du kích của Việt Cộng, và sụ xâm nhập theo đường mòn Trường Sơn của Cộng Sản Bắc Việt với chiêu bài “giải phóng.”
Miền Bắc, dưới tên “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,” lấy chủ nghĩa Mác – Lê làm kim chỉ nam, tổ chức xâm lược, xây dựng mạng lưới hậu cần kỳ vĩ, và quyết tâm “thống nhất đất nước bằng bất cứ giá nào.”
Miền Nam bị gọi là “bè lũ tay sai,” “ngụy quyền bán nước,” nhưng ai đã sống ở Sài Gòn trước 1975 sẽ hiểu: đó là một xã hội năng động, học đường nở rộ, báo chí tự do, nghệ thuật phong phú. Người dân lo cho con ăn học, làm ăn sinh sống, xây dựng đạo lý gia đình. Ấy vậy mà một ngày, cũng như người Moriori, họ bị gọi là kẻ thù, bị “giải phóng,” rồi bị đem đi học tập, cải tạo, đánh tư sản, cấm tiệm cấm nghề. Bao nhiêu trí thức ra đi bằng ghe nhỏ thuyền nan. Tới lúc ấy mới hiểu: cái gọi là “hòa hợp hòa giải dân tộc” không thể đến từ một phía.
Người Moriori không hề yếu kém về tinh thần. Họ chỉ không chuẩn bị cho một cuộc chiến mà trong đó, kẻ kia đã huấn luyện binh đao, đã nung sắt rèn dao từ lâu lắm. Người miền Nam cũng không thua vì kém học hay thiếu lòng yêu nước, mà vì họ chọn sống khác: chọn sách vở hơn súng đạn, chọn lý lẽ hơn khẩu hiệu, chọn đa nguyên thay vì một màu đỏ máu.
Sự tử tế, nếu không có sức mạnh bảo vệ, dễ trở thành con mồi cho bạo lực.
Thời đó, Miền Nam đã từng tin rằng: có thể cùng ngồi xuống, ký hiệp định Paris, rồi cùng “chung sống hòa bình.” Nhưng giống như lời cuối trong sách “Súng, Vi trùng và Thép” của Jared Diamond, cái ác không đến từ bản chất dân tộc nào cả, mà đến từ sự chênh lệch về tổ chức, kỹ nghệ, và khả năng sử dụng quyền lực.
Không ai sinh ra để làm nô lệ. Nhưng khi một bên chỉ biết làm lúa, còn bên kia học cách cắm lưỡi lê, thì cuộc cờ gần như đã định.
Ngày nay, khi đọc lại câu chuyện Moriori, người Việt chúng ta nên tự hỏi: mình là ai trong bi kịch đó? Liệu một dân tộc có thể sống hiền hòa, văn minh, mà vẫn đủ sức tự vệ trước những cơn cuồng phong của lịch sử?
Nếu chỉ mong “cùng hưởng lộc trời,” mà không dám đặt câu hỏi: “Kẻ kia có hiểu thế nào là đủ không?” thì rất có thể chúng ta sẽ lại là người rơi vào bẫy.
Một đất nước muốn sống lâu phải học cách vừa cầm bút, vừa biết cầm khiên. Lịch sử không dành cho người tử tế nhất, mà cho kẻ biết giữ mình trước khi quá muộn.
Miền Nam đã mất, nhưng bài học thì còn đó. Sống tử tế là điều đáng quý, nhưng sống tử tế mà không biết phòng thân thì rất dễ trở thành chuyện cổ tích buồn, như người Moriori – người cuối cùng bị ép từ bỏ ngôn ngữ, truyền thống, ngay trên chính quê hương mình.
Nếu ai đó còn nghĩ “hòa bình là cứ nhường nhịn cho qua chuyện” thì xin hãy nhớ: hòa bình thật sự chỉ xảy ra khi cả hai bên cùng muốn hòa bình, và cùng biết dừng lại trước ranh giới của lòng tham. Và đôi khi, lịch sử lặp lại không phải để cảnh cáo, mà để xem ta có học được gì từ lần trước hay không?
(Melbourne)




























