Giải Nobel Hòa Bình 1973 đồng trao cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Lê Đức Thọ từ chối nhận giải với lý do, đối phương (Mỹ và VNCH) vi phạm thỏa thuận (về ngưng bắn)! Lê Đức Thọ-Bí Thư Chiến Dịch Hồ Chí Minh–Đánh chiếm Sài Gòn, 30/Tháng 4/1975
Dẫn Nhập: Vào độ tuổi quá 70, tiếp giáp 80, người viết vô tình được ở trong tình cảnh “không nghe/không nói/không làm..” bởi không có ai để tiếp xúc, chuyện trò ở chốn vắng người bản địa, chứ đừng nói với người Việt, một city nhỏ của Tiểu Bang Arizona. Trong tình thế sống như thế, bản thân có đủ 24/24 giờ một ngày để tự hỏi và tự trả lời cho vấn nạn: Tại sao đời sống (của bất cứ cá nhân, xã hội, quốc gia nào..) trên quả đất nầy, tại giờ phút nầy lại khốn đốn, nguy nan đến như vậy?
Câu hỏi hoàn toàn không có nội dung, hình thức mang tính thần học, triết học, siêu hình, kể cả chính trị, văn hóa… phát khởi từ một đạo giáo, học thuật, chế độ chính trị-xã hội nào cả – Những vấn đề mà bản thân (cũng) hiểu rõ không thuộc khả năng, ý hướng, suy nghĩ của mình mà ở tuổi cuối đời không thể (tự) dối trá được. Tại sao vậy? Hỏi về những “nghịch lý” hằng hà thường trực diễn ra với người, và việc nơi cuộc sống trần thế nầy.
Cụ thể đối với Việt Nam trước, sau 1975. Điển hình “Giải Nobel (gọi là) Hòa Bình” đã rất KHÔNG CÔNG BÌNH đối với sinh mệnh, thống khổ Việt Nam trước, sau 1975 – Dân tộc đã một lần nhận được “hòa bình” từ Kissinger và Lê Đức Thọ sau quá trình bàn thảo về cái gọi là “Hiệp Định Ngưng Bắn tại Việt Nam” ký kết ngày 27 Tháng 1, 1973 tại Paris, nước Pháp trước chứng kiến hân hoan của toàn thế giới – Nền “hòa bình” sống được “Hai năm, Ba tháng, Bốn ngày (27/1/1973-30/4/1975)”, kết thúc tại Ngày 30 Tháng Tư, 1975 do chiến dịch Hồ Chí Minh bởi chính tay Lê Đức Thọ giữ chức “Bí thư chiến dịch” với quyết tâm nhận từ Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản nơi Hà Nội- Không thắng không về! Và cũng đúng như Kissinger ước tính từ khi ký kết: Hiệp Định (sẽ) sống được khoảng hai năm rưỡi! Sự dối trá chính trị của Ủy Viên Trung Ương Đảng CS Hà Nội Lê Đức Thọ được chứng minh bởi trí sáng ngoại giao của Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Kissinger – Hai tác nhân đồng nhận giải Nobel Hòa Bình 1973! Như thế là thế nào?
Cũng nên nói thêm những chi tiết cần thiết để tránh ngộ nhận vô tình hoặc cố ý sẵn sàng chụp xuống. Gia đình bên ngoại chính gốc họ Ngô Đình, nhưng là “Ngô Đình Phật Giáo/Khu Nam Giao” với những Chùa Từ Đàm, Từ Hiếu, Sư Nữ… Nơi ông Cậu Cả, Ngô Đình Thảng (Nhà ở đường Mã Khái, Thành Nội Huế) đã cùng với ông Ngô Đình Cẩn/Khu Công Giáo Phú Cam đưa nhau lên chơi trong những năm trước, sau 1945. Cậu Cả Ngô Đình Thảng là thân sinh ông anh Ngô Đình Thiếu Dũng/Võ Đình Mai/Họa Sĩ Võ Đình (1933-2009), bạn thân Nhất Hạnh từ 1960’s tại Pháp. Thêm một chi tiết nữa cần kể ra cho chắc: Chị Ngô Thị Thu Minh, con Cậu Hai Ngô Đình Hòe (Hãng nước đá-cà-rem Việt Hưng, Nha Trang) tức Ni Cô Diệu Quang, tự thiêu tại Ninh Hòa, Khánh Hòa sau lần Thầy Quảng Đức, 11/6/1963 tại Sài Gòn. Kể rõ như thế để không thể nào bảo cá nhân tôi là “Phản Thầy/Hại Đạo” được!
Họ nội, họ Phan gốc Quảng Trị với Bác Hai Phan Văn Kinh, Ủy Viên Trung Ương Bí Thư Khu 5 Đảng Đại Việt – Là nguyên nhân (chính trị) khiến người con, Đại Úy PhH.Hiệp phải mang cấp bậc đại úy những 9 năm (1954-1963). Suốt giai đoạn 1964-1960, Đại Úy Hiệp phải cư ngụ chung với ông cậu, Kịch Sĩ Vũ Đức Duy tại phòng 14 B/Building Cửu Long, 128 Hai Bà Trưng để hàng tuần đi bộ đến trình diện Cục An Ninh Quân Đội tại đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Những chi tiết nêu trên cần phải nói ra để đề phòng những chụp mũ gọi là nhằm “Phục hồi chế độ Ngô Đình” – Loại mũ thô lậu, ngây ngô của những “chiến sĩ chống cộng” lềnh lầy nơi hải ngoại – Những kẻ không hề một ngày chiến trận trước 1975; sau 30/4 không một ngày tù tội cộng sản – Những “trí thức/văn nghệ sĩ yêu nước” đã và sẽ sẵn sàng “về Hà Nội tham quan quê hương giàu đẹp”; cũng sẵn sàng hạ xuống kết tội “cộng sản nằm vùng” cho bất cứ ai không đi với “ta”. Cuối cùng, bài viết dài sau đây thành hình trước cái chết của Nhất Hạnh Nguyễn Xuân Bảo (22 Tháng 1) và Chiến Tranh Ukraine (24 Tháng 2) năm 2022 nầy – Nếu phải dần đề cập đến là do ngẫu nhiên một cách hợp lý xẩy ra vì MỐI ĐAU CỦA DÂN TỘC VIỆT NẶNG NỀ HƠN, KHỐC LIỆT HƠN.
Giải Nobel Hòa Bình Không Công Bình – Bài Một
I – Bài Một.
Bác Hồ sống mãi trong Sự Nghiệp Chúng Ta!
Năm 1968, Nguyễn Chí Thiện nơi nhà tù Miền Bắc luôn nhẩm trong đầu câu thơ khốc liệt mà chắc nói ra lời sẽ bị mất mạng ngay lập tức:
Tôi biết nó!
Thằng nói câu nói đó!
Tôi biết nó!
Đồng bào miền Bắc biết nó!
Tại sao Nguyễn Chí Thiện khẳng định như trên? Hãy xem “bác” nói những gì để bị người làm thơ nguyền rủa nặng lời như vậy. “Bác” nói như thế nầy: Không có gì quý hơn Độc Lập–Tự Do! Và sau nầy, năm 1976 Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng CS (lần thứ hai) trong dịp vào Sài Gòn dự lễ “Thống Nhất Nước Nhà Về Mặt Nhà Nước” lập lại câu nói ý trên với một dạng thức khác: “Xã hội chủ nghĩa dẫu chưa hoàn chỉnh nhưng tốt đẹp gấp vạn lần chế độ tư bản!” Như vậy “Sự Thật” ở nơi đâu? Bác Hồ là “Người học trò ưu tú của Marx-Lenin, áp dụng nhuần nhuyễn tư tưởng Chủ Tịch Mao Trạch Đông vào điều kiện cách mạng nước ta”.
Như vậy, Trường Chinh là học trò ưu tú/kiệt xuất từ những “bậc thầy” tuyệt đối không hề nhầm lẫn, nắm chắc chân lý của thời đại/thời đại cách mạng vô sản thế giới. Vậy phải có một điều gì không hợp lý trong quá trình “học/dạy học/áp dụng” của những con người “Thay mặt/Qua mặt Thượng Đế” nầy? Chúng ta hãy xem ra từ lịch sử – Mà lịch sử thì không thể sửa đổi gì được cho dù bác có tung lồng kính nơi Hà Nội bước ra đòi thay đổi!
Tài liệu chính thức của đảng CS Hà Nội đầy dẫy chi tiết, dữ kiện: Hồ Chí Minh, một trong những thành viên tích cực của Đệ Tam Quốc Tế CS, chỉ nghĩ tới đảng chứ không phải dân tộc. “Di chúc Hồ Chí Minh”, do đảng CS chính thức công bố, dài 1,127 chữ, nhưng trong suốt “di chúc” không có chữ “Dân Tộc” (Việt Nam) nào. Trong 6 điều để lại trong “di chúc”, điều thứ nhất nói về đảng, điều thứ hai nói về đảng: thứ ba, thứ tư nói về đảng, thứ năm nói về đảng, và kết luận cũng nói về đảng.
Trong quan điểm CS, dân tộc chỉ là một phương tiện, một chặng đường, một chiếc ghe dẫn đến mục đích CS. Câu “Công nhân không có tổ quốc” (Working men have no country) trong Tuyên Ngôn Đảng CS của Karl Marx và Frederick Engels công bố vào tháng 2, 1948 đã khẳng định điều này (Trần Trung Đạo – Chiếc Bẫy Dân Tộc, 11/2021). Và chiến tranh Việt Nam/Chiến Tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954); tiếp Chiến Tranh VN/Chiến Tranh Đông Dương lần Hai (20/12/1960-30/4/1975 CHỈ từ, do, bởi nhân sự gọi là HCM và tổ chức đảng CS của đương sự chứ không ai khác. Xin tiếp chứng minh như sau.
Không phải tự nhiên mà “bác Hồ” – Tên thông dụng của người Việt được dùng trong bài viết, chứ không phải cách gọi “Bác Hồ kính yêu” của phía CS” – thủ đắc “thiên tài” gây tai họa như thế – Bác được “dạy”. Vì từ khởi đầu là một cậu nhà quê tên Ba lên tàu Latouche Tréville qua Pháp theo đường làm bồi để đi “cứu nước” mà thật sự chỉ là đi tìm cách sinh sống vì gia đình ở Việt Nam bị kẹt do người cha, Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) phạm tội say rượu giết người khi làm tri huyện ở Bình Định – Có lẽ vì lý do nầy, Nguyễn Sinh Côn/Nguyễn Tất Thành… tức Hồ đã KHÔNG HỀ MỘT CHỮ, MỘT LỜI, MỘT LẦN NHẮC ĐẾN CHA (?!). Điển hình, bác được dạy như thế nầy: “Tôn giáo là một hình thức của một tạo lập áp bức, trái tim của một thế giới vô tâm. Đấy chỉ là tinh thần của một hoàn cảnh không lý tín. Một thứ á phiện của quần chúng!”
Từ Thế Kỷ 19, Karl Marx đã “DẠY” rõ ra như thế thì một “chú Ba” (tên của Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Côn... tiền thân của HCM), năm 1911, với trí năng của một anh thanh niên người An Nam 21 tuổi (Sinh năm 1890 trong đơn xin Học Trường Thuộc Địa của Nguyễn Sinh Côn, tức Ba), mới qua bậc tiểu học thì làm sao có khả năng hiểu thấu và không nghe lời dạy của Marx?! Tuy nhiên, “bác” dẫu kém cỏi bao nhiêu cũng phải học – Không học không được?! Không học là chết ngay với Stalin, tên sát nhân lớn của Thế Kỷ 20, thủ lĩnh độc tài của Liên Xô từ 1924. Cũng bởi trong giai đoạn 1933-1938, khi học ở Đại Học Phương Đông (1923) với tên Linov, ngoài cô vợ trên giấy tờ Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Linov còn có một người vợ Nga khác. Lẽ tất nhiên, tình báo Liên Xô phải giữ chuyện nầy để ghìm bác. Thế nên, bác đã là một học trò (rất) ngoan và học (rất) giỏi. Tuy nhiên, Stalin chưa phải là đủ. Bác còn một vị thầy siêu đẳng khác: Thầy Mao của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nơi Bắc Kinh.
So với Stalin, Mao hơn hẳn cho dù Stalin làm thầy “bác Hồ” trước. Tuy nhiên bác Mao hơn hẳn Stalin với kỹ thuật, nghệ thuật giết người bẩm sinh, thiên phú, được nuôi dưỡng bởi truyền thống Hán Tộc – Một huyết thống từ hơn hai ngàn năm trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng (260-211 TCN) đã tiêu dùng một triệu dân để xây phần đầu của Vạn Lý Trường Thành (công trình ở quả đất có thể thấy được từ Mặt trăng!).
Năm 1950 sau khi chiếm xong Hoa Lục (1/10/1949), Chủ Tịch Mao bày tỏ: “Tôi không sợ Mỹ, cho dù Mỹ có bom nguyên tử. Bởi Mỹ không thể tiêu diệt hết dân Hoa, và cho dù giết hết vài ba trăm triệu (Thập niên 1950-1960, Trung Hoa có dân số gây ấn tượng mạnh từ 600 đến 800 triệu), thì còn một huyện vẫn đủ xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Mao không ngoa ngôn. Chủ tịch nói và làm thiệt. Với tham vọng “vượt trên Anh Quốc trong 10 năm và Mỹ trong 15 năm; Liên Xô là đồ bỏ không cần tính tới” – 1958, Mao khởi động vận động Đại Nhảy Vọt (Great Leap Forward) để trở thành một cuộc “Đại Tụt Hậu” và “Đại Nạn Đói” (Great Chinese Famine, theo cuốn sách của nhà sử học Frank Dikotter, gây nên cái chết cho khoảng 45 triệu người.)
Kết quả từ trí tuệ siêu đẳng của Chủ Tịch Mao, 45 triệu người chết theo cách tính của Frank Dikotter chỉ là số ít, có thể lên tới 55 triệu! Mao thản nhiên kết luận: Chết ấy là do ba năm thiên tai, cũng do lỗi của Phó Thủ Tướng Đặng Tử Khôi, phụ trách Ủy Ban Nông Nghiệp Trung Ương Đảng đã không nghe lời ta! Mà giả sử như ta có sai thì Khổng Tử cũng có khi sai vậy!
Bài học “chết người/giết người” với cách máu lạnh từ bác Mao, bác Hồ học được rất sớm, rất kỹ và cải tiến thành kỹ thuật “Giết người với chữ-Bằng khẩu hiệu” qua sự kiện: Thập niên 1950, Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận trung ương đảng CS ngoài những thành viên cốt cán gồm Trường Chinh, Hoàng Tùng, Trần Đĩnh… còn có một cây bút “ẩn danh” khác, ký tên CB (một bí danh của bác Hồ mà ai cũng “giả vờ không biết” -Pnn). CB gởi báo (nằm cách bác một vài lán trại) một bài viết “Địa chủ ác ghê” có nội dung: “Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa–thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ: Mụ địa chủ Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la...” Địa chủ Nguyễn Thị Năm (Chủ hệ thống thương mãi lớn Cát-Hanh-Long) là chủ nhân gia đình đã nuôi ăn, cho chỗ cư trú, đặt trụ sở nhà nước cách mạng với bản thân HCM, đám cán bộ trung ương Việt Minh cộng sản tại Hà Nội trước khi Hồ khai sinh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ngày 2 Tháng 9, 1945.
Giết bà Nguyễn Thị Năm không phải do hành động đơn lẻ của đội Cải Cách Ruộng Đất, nhưng là một kế hoạch được chỉ đạo nhất quán từ “quyền giết người” của HCM. Nhưng HCM xét ra cũng chỉ là kẻ thừa hành vì mùa Hè năm 1952, Mao gọi Hồ sang Tàu, để sau đó cùng qua Liên Xô gặp Stalin. Gọi sang Liên Xô là để Mao và Stalin cùng buộc Hồ phải thi hành kế hoạch cải cách ruộng đất. Từ lúc tiến hành đến lúc dừng là ba năm (1953-1956) – Đây là sách lược của Bắc Kinh đã rắp tâm đưa đảng cộng sản VN vào quỹ đạo của Trung Cộng như bóng với hình! (Trần Đĩnh, Đèn Cù, 2014, trang 95).
Giết/Giết oan xong 172,008 người (người mang tội danh “địa chủ ác độc” do chỉ sở hữu 0,65 hécta đất, nhà có thúng lúa để dành, và vài con gà, vịt! Số liệu chính sách của Đặng Phong, chuyên viên kinh tế cao cấp trong nước-Pnn), HCM lên đài Hà Nội khóc lóc, nhận lỗi (nhầm lẫn) trong ngày 18 tháng 8, 1956, cùng cách chức Tổng Bí Thư Trường Chinh. Cách khóc lóc nầy không đủ để xóa tội ác của Hồ và đồng đảng. Bởi Hitler, Himmler thậm chí đến Rudolf Hess, chỉ huy trưởng trại hành quyết Auschwitz dẫu không hề bóp cò súng hay bấm nút lò hơi ngạt để giết một ai, nhưng đích thực là những thủ phạm tội ác diệt chủng 6 triệu người Do Thái. Cũng thế, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng… tất cả tập đoàn bộ chính trị đảng cộng sản là thủ phạm sách lược tàn sát tập thể người dân Việt một cách có hệ thống kể từ ngày đảng cộng sản thành lập, 1930.
Quá trình tàn sát được thực hiện tại những cao điểm: Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956 ở Miền Bắc; Mậu Thân Huế, 1968; Đại Lộ Kinh Hoàng, Quảng Trị 1972… Và mỗi thước đất, mỗi làng xóm, thị trấn, thành phố của miền Nam dài theo chiến dịch Hồ Chí Minh khởi đi từ 10 tháng 3, 1975 với cuộc tấn công Ban Mê Thuột. “Tội Ác-Đảng Cộng Sản” không ngừng lại tại Ngày 30 Tháng Tư, 1975 với 600,000 người Việt chết trên đường vượt biên, vượt biển bởi kế hoạch “công an tổ chức vượt biên/công an bán bãi vượt biên/công an tàn sát vượt biên”. Tội ác đảng cộng sản Việt Nam được thực hiện bởi một “sợi chỉ hồng xuyên suốt” từ Hồ Chí Minh với thời điểm 2 Tháng 9, 1945 tại Hà Nội, hiện nay vẫn đang tiếp tục…
Quả thật “bác” đã học và làm hay hơn cả gã thầy bên Bắc Kinh. Bác là thiên tài sáng tạo giết người của giòng Việt tộc un đúc từ đất Nghệ An qua lời sấm Nam Đàn sinh thánh! Hãy xem “Thánh Nam Đàn “làm phép” với vận mệnh Dân Tộc Việt Nam! Một Dân Tộc CHƯA HỀ CÓ HÒA BÌNH.
Nobel Hòa Bình Không Bình Đẳng –Bài Hai
21- Chiến tranh – Chiến Tranh Việt Nam lần thứ Nhất (19/12/1946 – 20/7/1954) từ đâu? Do ai?
Bắt đầu từ Mùa Hè năm 1945 Thế chiến Thứ Hai đi vào giai đoạn kết thúc. Oan nghiệt thay khi nhân loại dần ra khỏi cơn ác mộng chiến tranh thì đất Việt lại bắt đầu dậy cơn lửa đạn với một lực lượng gọi là Mặt Trận Việt Minh do đảng cộng sản Đông Dương làm hạt nhân tổ chức và chỉ đạo. Để hiểu rõ tình thế của Việt Nam vào những ngày tháng 8 năm 1945 chúng ta cần tìm hiểu Mặt Trận Việt Minh là gì, do ai lãnh đạo và lực lượng nầy đã đưa đất nước đi về đâu?
Vào đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh từ Trung Hoa về nước đặt căn cứ ở hang Pác Bó, Châu Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng để trực tiếp chỉ huy lực lượng cộng sản đang hoạt động ở ba nước Việt, Miên, Lào. Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội Nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ 8 vào Tháng 5 năm 1941 đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu lên làm tổng bí thư đảng chuẩn bị cho lần cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội.
Trong cùng thời điểm 1945, Triều Đình Huế với Vua Bảo Đại thành hình Đế Quốc Việt Nam. Đế Quốc Việt Nam là một chính thể chỉ tồn tại từ 11 Tháng 3 đến 23 Tháng 8, năm 1945. Với Dụ số 1 ra Ngày 17 Tháng 3 nhà vua nêu khẩu hiệu “Dân Vi Quý” có nghĩa lấy Dân Làm Quý là phương châm trị nước. Nhà sử học Trần Trọng Kim được bổ làm nội các tổng trưởng thời kỳ mới, được giao nhiệm vụ thành lập chính phủ vào Ngày 17 Tháng 4. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Độc Lập và Ông Trần Trọng Kim trở thành vị Thủ Tướng đầu tiên của lịch sử dân chủ của quốc gia Việt Nam. Tháng 6 năm 1945 Chính Phủ của Thủ Tướng Trần Trọng Kim đặt Quốc Hiệu là Đế Quốc Việt Nam; lấy Quốc Ca là bài Đăng Đàn Cung; Quốc Kỳ có “Nền Vàng Hình Chữ Nhật giữa có Hình Quẻ Ly gồm Ba Vạch Màu Đỏ thẩm”. Đây là cờ biểu tượng chính thống xuất hiện trên toàn lãnh thổ việt Nam trước khi có lá Cờ Đỏ Sao Vàng của Chính Phủ Lâm Thời do Mặt Trận Việt Minh cướp được từ chính quyền của Thủ Tướng Trần Trọng Kim theo diễn tiến như sau.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, dân chúng Hà Nội kéo đến quảng trường Nhà Hát Lớn họp mít-tinh chào mừng phái đoàn Chính Phủ Trần Trọng Kim từ Huế ra. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ Quẻ Ly bị giật xuống, một người đeo súng ngắn, đăng đàn diễn thuyết kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh đánh Pháp, đuổi Nhật đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng… Cuộc mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh với Cờ Đỏ Sao Vàng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng do ai, từ đâu (Tô Hải. Hồi Ký Của Một Thằng Hèn–2009)
Hôm nay 77 năm của Tháng 9 năm 1945 chúng ta có thể chứng minh rằng: Không phải Mặt Trận Việt Minh đã thống nhất đất nước dưới lá cờ cách mạng dân tộc mà Chính Phủ Thủ Tướng Trần Trọng Kim đã thu hồi quyền thống nhất lãnh thổ trước ngày Nhật đầu hàng đồng minh-Mỹ (2 Tháng 9, 1945), và quan trọng hơn là chuẩn bị tái nhập Nam Bộ vào lại lãnh thổ Việt Nam để thực thi sự thống nhất đất nước. Trái lại ngay trong buổi chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông Hồ đã yêu cầu thị dân Hà Nội tuyên hứa 4 điều không làm: “Thề không đi lính cho Pháp. Thề không làm việc cho Pháp. Thề không bán lương thực cho Pháp. Và thề không đưa đường cho Pháp trở lại Việt Nam.” Nhưng không đầy một năm sau vào Ngày 6 Tháng 3, 1946 ông Hồ đã ký Hòa Ước Sơ Bộ thuận để cho quân Pháp trở lại Bắc Việt. Để từ đây khởi đầu cuộc chiến mãi đến 20 Tháng 7, 1954 mới chấm dứt.
22- Chiến tranh – Chiến Tranh Việt Nam lần thứ Hai (19/12/1960 – 30/4/1975) từ đâu? Do ai?
Cách mạng mùa Thu/Cướp chính quyền/Tuyên ngôn độc lập đọc tại Ba Đình ngày 2/9/1945 như phần trên đã trình bày chứng tỏ Đảng không mạnh, “Chủ Tịch HCM cũng không bao lăm sức so cùng Thầy Mao với Đảng CS Trung Hoa. Hãy xem sự kiện Tháng 10, 1949 nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc ra đời, nhưng chỉ hai tháng sau, bác Hồ (đã là chủ tịch nước VNDCCH từ 2/9/1945-Pnn) bí mật len qua vùng Pháp đóng ở Phục Hòa, Cao Bằng để đi Tàu triều kiến. Hồ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai.
Kiểm thảo xong, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét, góp ý kiến vì ĐCS/VN là một chi bộ của quốc tế cộng sản /Tức thuộc quyền Đông Phương Vụ của Mao! Hồ đương nhiên chấp nhận vị thế đàn em, biết ơn nên xác định với Mao quan hệ “môi hở-răng lạnh/Vừa là đồng chí-Vừa là anh em” giữa Việt Nam và Trung Cộng. Hồ nhận mình chỉ nêu được có được tác phong/danh vị đối với Việt Nam, còn tư tưởng, lý luận thì lấy tư tưởng Mao làm kim chỉ nam. Từ 1951 đã là vậy huống gì đến năm 1954 với yểm trợ trực tiếp của Trung Cộng từ bát ăn cơm, bánh lương khô, đến khẩu pháo kéo vào trận địa Điện Biên Phủ, nên dẫu đã đoạt thắng trong ngày 7/ Tháng 5, 1954, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã buộc phải đến Liễu Châu theo lệnh từ Bắc Kinh trong lúc thế nước đang hồi quyết định để tiến hành tám lần họp trong ba ngày (3-5 Tháng 7, 1954). Cuộc họp đưa ra quyết định trọng đại tại Hội Nghị Đình Chiến Đông Dương đang họp tại Genève (7/1954) đối với số phận, tương lai của Việt Nam dưới chủ trì của Chu Ân Lai nhận lệnh trực tiếp từ Mao Trạch Đông.
Hội nghị Genève hoàn tất chia đôi đất nước đất nước 20/7/1954 theo kế hoạch có tính cách quyết định bởi Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc lần đầu tiên ra diễn trường thế giới. Kế hoạch nầy được giải mã trong thập niên 1988’s -1990’s gồm 28 tập hồ sơ tích chứa thư từ, điện tín, báo cáo, chỉ thị giữa Châu và Mao từ phiên họp đầu tiên đầu tiên (26/2/1954) đến phiên họp cuối cùng (21/7/1954). Tập hồ sơ được giải mật mà nay đọc lại tưởng chừng như một chuyện thần tiên được viết bởi những thánh hiền chỉ có trong cổ tích. Đại khái, phần (3) của Hồ sơ thứ nhất có nội dung:
“Chúng ta (phái đoàn Trung Cộng-Pnn) phải cố sức tối đa để Hội Nghị Genève không thể kết thúc mà không có kết quả... Cho dẫu không đạt được thỏa thuận nào, chúng ta cũng không để những thảo luận nhằm thiết lập “Hòa Bình Đông Dương” bị thất bại, chúng ta phải tạo nên tình thế gọi là “vừa đánh vừa đàm” để đẩy mạnh Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế, tạo nên sự khó khăn trong nước Pháp, gây đối nghịch giữa Pháp và Mỹ…”
Về những câu hỏi liên quan đến tái lập hòa bình ở Đông Dương, phái đoàn Trung Cộng chủ trương rằng: Biện pháp ngưng chiến bên nào ở chỗ đó e rằng không hữu hiệu bằng sự chia cắt hai miền Nam-Bắc theo một đường ngưng chiến khoảng vĩ tuyến Thứ 16! Vâng, vậy quyết định chia cắt đất nước Việt Nam (20/7/1954) không phải từ HCM hay Phạm Văn Đồng mà từ Châu Ân Lai, bởi Mao từ khi hội nghị vừa khai mạc! Phần (3) của hồ sơ Bắc Kinh cũng nhất nhất đề ra những chi tiết (Từ/của Mao) được Châu Ân Lai trình bày và thực hiện tại Genève:
Điều #3/Phần (3): Trong vòng sáu tháng sau khi ký hòa ước, tất cả lực lượng nước ngoài (Quân Đoàn Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương-Pnn) bao gồm hải, lục, không quân và binh đội phải hoàn toàn rút khỏi Đông Dương – Lưu ý: Các lực lượng phản chiến/Chống đối chiến tranh ở Miền Nam nơi đường phố Sài Gòn; ở DC, Mỹ; ở Paris Pháp… trong những năm 1966, 1968, 1972 CHỈ LẬP LẠI NHỮNG YÊU CẦU CỦA MAO/CHÂU ĐÃ BÀY RA TỪ 1954 Ở GENÈVE – Pnn
Điều #4/(Phần (3) còn đề ra những biện pháp “hòa bình” đẹp đẽ tưởng như chuyện thần tiên: Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (của HCM ĐANG trong rừng núi Việt Bắc nhưng được kể ra trước -Pnn) và chính phủ Quốc gia Việt Nam (1948-1955, Quốc Trưởng Bảo Đại, quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao với khối dân chủ toàn cầu, Thủ Đô Sài Gòn, chỉ nhắc đến thứ yếu-Pnn); nhà nước kháng chiến Lào (tương tự như lực lượng cũng CS của HCM) và Chính Phủ Vương Quốc Lào (Tương tự như QGVN/Hoàng Đế Bảo Đại); Ủy Ban Quốc Gia Giải Phóng Cambodia (Tiền thân CS/Khmer Đỏ sau 4/1975-Pnn) và Chính Phủ Vương Quốc Cambodia (Quốc Trưởng Sihanouk-Pnn)… với sự tham dự của các thành phần dân chủ (Lực lượng thiên tả, thân cộng-Pnn) của ba quốc gia sẽ thiết lập những ủy ban liên hiệp tạm thời nhằm sửa soạn cho việc “thống nhất hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ, tự do” của ba nước Đông Dương.
Hãy lưu ý thêm một lần: Cụm danh từ “hòa bình/dân chủ/tự do/độc lập dân tộc” đã được Mao-Châu rao giảng từ 1954 ở Genève chứ không phải “sáng kiến riêng” của Martin L. King ở Mỹ; Trí Quang, Nhất Hạnh ở VN/Đám “trí thức thân cộng, phản chiến” Miền Nam trong Mặt Trận Giải Phóng; Báo Đối Diện ở Sài Gòn chỉ là loại ăn ké thứ yếu; hoặc Che Guevara ở Nam Mỹ… Tóm lại tất cả giải Nobel Hòa Bình/Những “chiến sĩ tranh đấu hòa bình” xưa nay PHẢI ĐƯỢC TÍNH LẠI!!!
Do được Mao Trạch Đông – Châu Ân Lai chuẩn bị đầy đủ (Bản thân Hồ và Giáp lại được “quán triệt” trực tiếp từ Châu Ân Lai tại hội nghị mật Liễu Châu 3-5/7/1954 như trên đã một lần nói đến-Pnn); hiện thực tại Geneve qua lần chia đôi VN (20/7/1954) – Đảng cộng sản, nhà nước Hà Nội chiếm được nửa nước, có bốn năm nghỉ ngơi, Tháng 9, 1960, HCM đảng CS họp Đại hội 3 ở Hà Nội. Đại hội nầy có những nhiệm vụ, những mục tiêu chiến lược:
#1/Bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin (tức là không theo “Chủ nghĩa xét lại/Chung sống hòa bình với Mỹ-Tây Âu của Liên Xô-Pnn).
#2/Thực hiện quan điểm chiến tranh cách mạng của Mao, xây dựng cơ sở vật chất chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tổng tiến công và chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam. Lực lượng vũ trang Giải Phóng Miền Nam được thành lập, 15 tháng 2, 1961, do Trung Ương Cục Miền Nam/Đảng CS Hà Nội lãnh đạo, gia nhập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN thành hình từ 20/12/1960 – Hệ thống tổ chức chính trị-quân sự nầy chỉ đạo, thực hiện chiến tranh nhân dân chống lại Hoa Kỳ và chính phủ ngụy Sài Gòn với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc.
Xin ghi nhớ: Tại thời điểm Đại Hội 3 Đảng Cộng Sản nơi Hà Nội, Tháng 9/1960 hoàn toàn chưa nghe ra những danh tính gọi là Trí Quang ở VN; Martin L. King ở Mỹ… Nhất Hạnh (sinh 1926) đang là một tăng sinh nơi Chùa Từ Hiếu, Huế; những người viết sách, làm phim, phản đối chiến tranh Việt Nam như Ken Burns (sinh 1953) được 7 tuổi, và Lynn Norvick (1962) chưa sinh ra đời. Tháng 3, 1965 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng – Tháng 3, 1973 Quân Đội Mỹ hoàn toàn không có mặt tại Việt Nam.
Qua hai bài viết 1, 2 chúng ta đã điểm mặt đúng, đủ người, việc đã có mặt, từng xẩy ra hơn nửa thế kỷ từ 1945, 1954, 1960, 1965, 1975 trên đất nước Việt Nam, ở Hà Nội, nơi Bắc Kinh, tại Genève để đến đây có thể kết luận lại một cách chung cuộc: VIỆT NAM KHÔNG HỀ CÓ HÒA BÌNH. Phần viết tiếp sẽ trả lời cho vấn nạn đau thương nầy.
Nobel Hòa Bình Không Bình Đẳng –Bài Ba
Hòa Bình là gì? Với ai? Như thế nào?
Từ trí nhớ đầu tiên lúc ba tuổi sau lần “Vỡ Mặt Trận/Chiến tranh Pháp-Việt Minh” cuối năm 1946, tản cư về vùng Giạ Lê (?) Thừa Thiên, ngồi trong hầm đất lạnh lạnh với bà nội, cho đến sáng 29 tháng 4, 1975 nơi Tân Sơn Nhất bập bùng, dẫy dụa bởi đạn pháo cộng sản, quả tình bản thân chưa một lần trong đời “ham” chuyện “đánh nhau”, cho dù đi lính tác chiến nhảy dù từ ngày ra trường Đà Lạt, 23 Tháng 11, 1963. Cũng chưa hề viết xuống một chữ, một dòng ca ngợi chiến tranh từ buổi đầu cầm viết trong máu lửa Mậu thân ở Huế, 1968 cho tới hôm nay, cuối đời, cuối cuộc. Suốt một đời sống nơi Miền Nam cho đến Tháng 19/6/1976, tiếp năm dài biệt xứ lưu đầy nơi Miền Bắc (1976-1988), và sau 5 Tháng 11, 1993 nơi đất Mỹ, đi vòng thế giới.
Nơi đâu cũng chỉ thấy ra thực trạng (của chính bản thân, gia đình, xã hội Miền Nam (trước, sau 1954; khắp cả nước sau 1975..) với câu hỏi cay đắng não nề: Sao Con Người khổ đến vậy? Sao Người Việt khổ đến vậy? Và câu trả lời chung nhất/chính xác/cụ thể nhất: CHIẾN TRANH là cội nguồn của tất cả Thống Khổ – Từ đấy HÒA BÌNH MƠ ƯỚC LỚN NHẤT/ĐỘC NHẤT CỦA TẤT CẢ MỌI CON NGƯỜI/TOÀN DÂN TỘC VIỆT NAM/NHƯNG HÒA BÌNH CHƯA HỀ CÓ/KHÔNG HỀ CÓ! TẠI SAO?
Hòa Bình chưa hề có/không hề có với Dân Tộc Việt Nam vì trên đất nước nầy đã thành hình, đang hoàn tất Hệ Thống Tội Ác được chỉ đạo, thực hiện với những hình thức và đối tượng thụ nạn khác nhau. Cụ thể có thể kể ra là đợt “Cải Cách Công Thương Nghiệp miền Bắc” tai họa năm 1958-1960. Kế hoạch lùa hết thành phần thị dân thuộc các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… lên miền thượng du Bắc Việt. Tình trạng “lưu đày” nầy kéo dài từ 1956 cho đến Tháng 2, 1979, lần Tàu đánh sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa. Đấy cũng là tiền đề, kinh nghiệm “Chiến dịch cướp chiếm cấp nhà nước/Cải Tạo Công Thương Nghiệp Miền Nam (1976-1980) “sau lần tiến công quân sự/Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc tại Ngày 30 Tháng 4, 1975. Và hiện tại, qua Thế Kỷ 21 là bước Chiếm đoạt Quyền Sống/Đất sống của 90 triệu người dân Việt -Toàn khối dân chúng (Bắc lẫn Nam) bị xóa bỏ Quyền Sở Hữu Đất trên khu đất, nhà ở từ trăm năm trước do tổ tiên để lại. Cuộc cướp chiếm được Hiến Định Hóa bởi Điều 4 Hiến Pháp – Áp dụng sách lược: Đảng Lãnh Đạo-Nhân Dân Làm Chủ-Nhà Nước Quản Lý. Nhân Dân là gì? Là những ai?
Nhưng không chỉ có thế, chẳng phải đợi đến ngày 30 Tháng 4, 1975 với lần cưỡng chiếm Miền Nam, mà đã có rất lâu lời kêu gọi đẫm máu trong Ngày 19 tháng 12, 1946: Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên... Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc... Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước! Giặc gọi là “Thực Dân Pháp năm 1946” chỉ là một cái cớ! Tết Mậu Thân, 1968 Hồ Chí Minh từ đất Tàu ban lệnh tiến công/giết dân miền Nam với một “kẻ thù được cải biên gọi là “Giặc Mỹ” qua lời đòi máu gọi là “thơ”:
“Xuân nầy hơn hẳn mấy Xuân qua. Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà. Nam Bắc thi đua diệt giặc Mỹ. Tiến lên toàn thắng ắt về ta!” Những nội dung kêu gọi máu, đẫm mùi xác chết từ 1946, 1968… kia không là khẩu hiệu suông, chúng biến thành “Quốc ca-Đường vinh quang xây xác quân thù. Thề phanh thây uống máu quân thù… Tiến Quân Ca, Văn Cao”; hoặc là “Thơ cách mạng-Giết! Giết! Giết Bàn tay không phút nghỉ – Thơ Tố Hũu”..
Tất cả câu hát, lời thơ kể trên thấm vào máu, ghim sâu xuống bộ não, kiến tạo nên “tâm thức sát nhân – Giết người là một nghĩa vụ” đối với những thế hệ người Việt sinh vào những năm 1940, 1950, 1960 nơi Miền Bắc, ở vùng “giải phóng” trong Nam, và hoàn chỉnh sau 1975, tác động khắp cả nước. Những nhân vật “huyền thoại” không hề có dần được khai sinh… Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Tám nổ kho đạn, đốt cháy thân mình trong chiến tranh chống Pháp, tiếp Kan Lịch (?), Út Tịch (?) trong chiến tranh chống Mỹ (1960’s) với lời nguyền quyết liệt “còn một lai quần vẫn đánh Mỹ”…
Tác động của loại “chữ nghĩa” đẫm máu nầy không chỉ ảnh hưởng riêng đối với lớp người bình dân, ít học như vừa kể ra, nhưng ngay cả giới viết báo, viết sách chuyên nghiệp như Trần Đĩnh từ 1951, từng được cử đi học ở Nga, Tàu cũng đã viết nên những “tác phẩm” lớn như Bất Khuất để nêu cao tinh thần chống thực dân Pháp (trước 1954). Và sau 1975 vào Sài Gòn, tiếp hoàn tất Đèn Cù (NXB Người Việt, Nam Cali, 2014) nhằm chạy tội cho CS Hà Nội, đồng thời mô tả, hạ thấp bọn “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” theo cách đểu cáng, xách mé, tương tự của Nguyễn Khải (1930-2008), mang cấp đại tá, giữ chức vụ đại biểu quốc hội, chủ tịch hội nhà văn Miền Bắc viết ra hả hê trong Tháng Ba Tây Nguyên, 1976.
Tóm lại, loại văn hóa, văn học “máu me, xác chết” của Hà Nội mở rộng, đào sâu tác động nên những chữ nghĩa gọi là “chống đế quốc Mỹ trước 1975; chống Ngụy Quân-Ngụy Quyền sau 30 Tháng 4, 1975” thấm sâu vào thứ loại gọi là “liệt sĩ” Đặng Thùy Trâm, “nhà văn” Nguyễn Văn Thạc… để viết nên những lời hừng hực khí thế: “Thằng Mỹ như thế nào? Tôi muốn đâm lưỡi dao vào trái tim đen đúa của nó… (Nguyễn Văn Thạc. Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi. NXB Thanh Niên, VN, 2005). “Nhà văn chiến sĩ” Thạc đã vào Nam quá trễ nên không hề thấy được “thằng Mỹ”, bởi từ 27/3/1973 Quân Lực Mỹ đã sạch bóng nơi Miền Nam theo điều khoản “hòa bình” mà Bí Thư trung ương Lê Đức Thọ đã ký kết với đế quốc Mỹ Kissinger.
Khổ nỗi, có lẽ nhà văn Thạc cũng không không biết Kissinger là ai? Hiệp Định Paris là cái quái quỉ gì? Và tại sao đồng chí Bí Thư Thọ lại được trao tặng cái giải hòa bình thảm hại kia?! “Nhà văn bộ đội cụ Hồ” Thạc chắc chắn cũng KHÔNG biết rằng kể từ 1970, bộ binh Mỹ không còn tham chiến ở VN để Thạc có dịp đâm vào quả tim đen đúa của nó?! Sự kém cỏi hiểu biết của Thạc không chỉ giới hạn đối với phía cộng sản Hà Nội mà ngay với thành phần gọi là “học giả/chuyên viên nghiên cứu cao cấp Mỹ” như Ken Burns, Lynn Novick cũng nhận định rằng: Chiến Tranh Việt Nam bắt đầu từ 1965 khi thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng! Nói gì đến một “nhà văn/bộ đội” hai mươi tuổi học hành không bao nhiêu ra đi từ Hà Nội vào Nam giải phóng!
Giải (gọi là) Nobel Hòa Bình với chữ nghĩa và những con người như trên vừa trình bày, Hòa Bình Việt Nam không bao giờ có. Không thể có. Bài thứ tư sẽ nói rõ nỗi uẩn khúc cay đắng nầy với chiến sĩ hòa bình – Nhất Hạnh Nguyễn Xuân Bảo.
____________