Theo thông lệ, sáng ngày 28 tháng Tư tôi đến Bộ Tổng Tham Mưu để tháp tùng vị chỉ huy trưởng đến trường Cao Đẳng Quốc Phòng, rồi sau đó tôi tiếp tục lo những sự vụ đã được chỉ định. Khoảng 9 giờ sáng, sau khi tới trường, tôi rời văn phòng đi xuống phòng Tiếp Liệu thăm thiếu tá Thái – vị sĩ quan trưởng phòng lâu nay có khuôn mặt đăm chiêu. Dáng vẻ mất ngủ, ông Thái chìa tấm bản đồ có nét mực đỏ mà ông đã khoanh tròn từng ô, từng vùng, rồi nói: “mất rồi”; ông thở dài, “nó tấn tới đây rồi”, “quân mình đây”…
Nhưng tôi không nghĩ đến chuyện đầu hàng. Chiều, tôi vừa về đến Bộ Tổng Tham Mưu thì phi trường Tân Sơn Nhất bị dội bom… Trời tối dần, tôi đi ăn cơm về thì chỉ huy trưởng rủ tôi đi bách bộ trên con đường quanh khu cư xá. Ông tâm sự với tôi những suy tư và cô đơn cùng cực trong những ngày giờ định mệnh. Ông kể cho tôi nghe những thất vọng, đau xót đang xảy ra trong đời một tướng lãnh từng xông pha trận mạc. Ông nói: “Moa (moi, tức là tôi, tiếng Pháp) không có tin tức gì cả, từ phủ tổng thống đến bộ quốc phòng, bộ tổng tham mưu, không ai gọi họp hoặc cho biết tin tức hay một diễn biến nào”. Rồi ông hỏi tôi: “Các cha trong các xứ đạo, nơi chú ở có tổ chức gì không?” Tôi trả lời: “Dạ, không có tổ chức gì cả. Bây giờ không giống như năm 1954. Hàng giáo phẩm như đành chấp nhận thế sự đổi thay để sống với đạo. Gần hai tuần vừa qua, Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tiễn Đức giám mục Huỳnh Văn Nghi ra nhận Giáo phận Phan Thiết đã nhắc lại lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thày ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Cuộc chuyện trò bên người chỉ huy trưởng làm tôi thao thức suốt đêm. Tôi đã nghe, hiểu được tâm tư của một tướng lãnh cô thân cô thế nhưng kiên trung, khi chung quanh ông giờ chỉ còn cô con gái nhỏ 13 tuổi – bé Tý, tôi và vài ba anh lính thân cận. Hai ba người con của ông đang du học xa, người bạn đời đau yếu mấy năm nay được ông cậu và người bạn thân bảo trợ, đang chữa trị căn bịnh ác tính tại Pháp.
Những bước chân bách bộ đã mỏi với tâm trí rã rời, ông trở về phòng, và đêm 28 tháng Tư tôi ngủ lại trong Bộ Tổng Tham Mưu. Tám giờ sáng ngày 29 tháng 4 thượng sĩ Xinh lái xe ra đậu trước nhà, vài phút sau, Chỉ huy trưởng và bé Tý ra xe, ông và cô con gái đều mặc thường phục. Tôi và Xinh chào ông, ông nói Xinh đưa ông sang nhà Trung tướng Đính. Quay sang tôi, ông nói: “Tướng Đính điện thoại cho moa, kêu moa qua đó có thể còn chuyến trực thăng của mấy ông Mỹ ở building đối diện. Toa (toi – anh, cậu, chú tiếng Pháp) có đi không?” Lưỡng lự giây lát, tôi đáp: “Thôi, Trung tướng đi bình an”.
Biết tôi còn cha mẹ già và em nhỏ, ông nói: “Tôi cũng cũng đành để hai cụ tôi và anh em lại, tùy chú. Nếu không đi, nán lại, có gì tôi sẽ gọi cho chú.” Nói xong ông lên xe và tôi quay vào nhà. Tôi chờ đến chiều tối không thấy điện thoại reo, tôi nghĩ chắc ông đã lên được trực thăng và đi thoát rồi. Tôi chờ qua đêm trong tiếng súng ì ầm, giấc ngủ chập chờn.
Mặt trời sáng ngày 30 tháng Tư vừa lên, nghĩ mình không thuộc các đơn vị trong Bộ Tổng Tham Mưu, nên tôi thay bộ đồ nhà binh bằng bộ quần áo dân sự – quần dài xám áo sơ mi xanh, nhét trong lưng quần cây Colt 45, bỏ cái thẻ sinh viên Luật trong túi áo, giấu cái bóp vào gầm ghế chiếc Jeep trắng mang bảng số dân sự, lái đi. Khi chiếc xe Jeep gần tới khúc đường rẽ trái ra cổng Một thì nghe tiếng hô lớn: “Đứng lại! Đứng lại!”
Tôi nhìn quanh, các toán biệt kích và quân cảnh ở cổng Một đều là người mới, là những đơn vị mới đến trú đóng, không phải các binh sĩ thuộc đại đội Tổng hành dinh cũng như Đại đội A1 Quân Cảnh như thường lệ. Anh quân cảnh cho biết lệnh nội bất xuất ngoại bất nhập, nếu tôi bất tuân anh em sẽ nổ súng. Tôi vừa de xe quay lại thì đạn pháo kích dồn dập nổ, tiếng đạn pháo bay sè sè trên đầu. Tôi nhảy khỏi xe, nấp sau gốc cây nhìn những cột khói bốc cao ở hướng tòa nhà chánh và trung tâm hành quân. Đợt pháo vừa dứt, tôi nghe đại tá Thăng – Chánh sở Sở Điều Tra – Nha Tổng Thanh Tra năm xưa của tôi đang đứng trước cửa phòng 4 của Đại đội Tổng Hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu, nói lớn: “Tao lạy mày, Huy ơi, đi vào, đi vào đi, sống cùng sống chết cùng chết”. Nghe vậy, tôi rú ga chạy về lại khu hầm trú ẩn. Tôi nghĩ thầm, những tiền sát viên của bọn Việt Cộng đã xâm nhập được các cao ốc bên đường Thoại Ngọc Hầu đối diện với cổng Một nên đã chấm tọa độ chính xác để nã đạn pháo vào các khu trọng yếu của Bộ Tổng Tham Mưu.
Pháo mỗi lúc thêm dồn dập khắp khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, vài trái pháo đã rơi vào đầu dãy cư xá và khu vườn nhà Tướng Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Những tiếng rít của đạn pháo trên không trung khiến tôi không thể ra khỏi hầm trú ẩn. 10 giờ 20, điện thoại reo, thiếu úy Phát– người sĩ quan quản gia ngoài Bộ Tổng Tham Mưu, nói như hụt hơi từ bên kia đầu dây điện thoại: “Ông còn ở đó à? Chạy ra mau đi. Dương Văn Minh đầu hàng rồi, ông không nghe đài phát thanh sao? Chạy lẹ đi, bọn nó vào bắt ông bây giờ. Chạy lẹ đi!”.
Buông điện thoại, tôi chạy ra lấy chiếc Honda phóng xuống hướng Bạch Đằng. Dọc đường bọn nằm vùng bắt đầu xuất đầu lộ diện; tiếng súng nổ, người ngã xuống, nón sắt, quần áo súng đạn… vất đầy mặt đường. Khắp các đường phố, dân chúng đem quần áo dân sự ra cho anh em binh sĩ vừa tan hàng thay vội, quang cảnh thật đau xót. Thấy vậy, tôi chạy tạt vào Cộng Hòa Siffap Dược Cuộc ở 120 Hai Bà Trưng là chỗ quen biết, lánh nạn. Quá hai giờ chiều, thượng sĩ Xinh và hạ sĩ nhất An đến tìm tôi và đề nghị đưa tôi về nhà vì lo mẹ tôi khóc hết nước mắt khi không thấy tôi về sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Trên đường về, nhìn những cụm khói bốc lên từ sân sau nhà bà con hàng xóm bắt đầu gom đốt các hình ảnh và giấy tờ của thân nhân liên quan đến quân lực Việt Nam Cộng Hòa, làm tôi ứa nước mắt và xót xa cho thân phận.
Ra đi
Tháng sau, theo lệnh của chính quyền cộng sản, tôi đi trình diện và đem theo quần áo cho mười ngày tập trung. Nhưng rốt cuộc, tôi đã sống điêu đứng gần sáu năm bên các khu rừng già dọc biên giới Việt Miên – tỉnh Tây Ninh, trải qua năm trại tù sống với bo-bo, khoai mì, măng rừng, phải ăn khi không có nổi hai ba chén cơm gạo mục. Sống trong tù, tôi đã nhận ra sai lầm trong đời khi tôi quyết định ở lại, tôi đã không giúp được gì cho gia đình trong cảnh nước mất nhà tan mà lại trở thành một gánh nặng cho người thân yêu, nhất là cho mẹ tôi trong những năm tháng vượt đường núi rừng, lủi thủi ở bến xe, ngủ qua đêm ở nhà những gia đình không hề quen biết, để đi tiếp tế thăm nuôi tôi.
Cuối tháng Tám năm 1980, tôi được thả ra khỏi trại tù cải tạo lúc bảy giờ sáng. Sau những cuốc xe ôm, xe đò, xe lam tôi về đến ngã tư Bảy Hiền lúc 8 giờ 30 tối, và về đến nhà lúc 9 giờ trong nước mắt chờ đợi của gia đình và bà con lối xóm. Để che mắt công an khu vực, tôi nghe lời mẹ theo người anh họ học làm vỏ xe đạp và xe Honda – một loại nghề mà người Hoa đã bán lại để tẩu tán tài sản trước khi nạp vàng cho nhà nước để được đi “bán chính thức”, vượt ra khỏi “thiên đường cộng sản”.
Nhờ nước cờ tương kế tựu kế này mà cuộc vượt biên lần thứ ba của tôi vào cuối tháng Mười Hai năm 1980 ở cửa biển Rạch Giá đã thành công. Chúng tôi ra đi trên chiếc ghe bầu không hải đồ, hải bàn, chỉ có 120 lít dầu,120 lít nước, 50 ký gạo, 5 ký tép khô. Chiếc ghe được thả nổi sau bốn ngày và chỉ còn 10 lít xăng để chạy tránh cơn giông. Chiếc ghe như một nhà nguyện di động trên biển, vang vọng kinh nguyện suốt đêm. Những người đàn ông, đa số là người Công Giáo làm nghề đánh cá ở vùng biển Rạch Giá, ngồi dọc hai mạn thuyền, tay tát nước, miệng đọc kinh. Chiếc ghe trôi không định hướng, nhưng đã gặp được một tàu buôn Philippines. Chúng tôi may mắn gặp được ông thuyền trưởng tốt bụng; ông cho ghe chúng tôi những túi bánh kẹo, rồi gọi điện cho Hải quân Hoàng gia Thái kéo ghe chúng tôi vào quân cảng Satehip, sau đó Cao ủy Liên Hiệp Quốc đưa chúng tôi về trại tị nạn Leamsing Refugee Camp.
Lá thư của Chỉ Huy Trưởng
Thấy thiên hạ nhắn tin tìm người trên tạp chí Tiền Phong, tôi cũng bắt chước nhắn tin cho gia đình vị Chỉ Huy Trưởng của tôi. Sau sáu tháng ở Thái, tôi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn xếp vào diện CAT A1 đi thẳng đến Hoa Kỳ. Tôi đặt chân tới Hoa Kỳ ngày 15 tháng Sáu năm 1981 thì ngày 31 tháng Tám năm 1981 tôi nhận được thư của Chỉ Huy Trưởng gởi cho em tôi hỏi thăm tin tức về tôi: “đặng tìm cách giúp đỡ cho anh ấy”. Cảm động trước tấm chân tình của ông, tôi đã viết thơ cám ơn ông và gia đình.
Khi còn ở tù, tôi vẫn thầm nghĩ thật may mắn cho những người đã di tản kịp trước khi mất nước, họ không bị sỉ nhục, đày đọa và không gặp nhiều tai ách như những người tù và người vượt biên chúng tôi. Nhưng tôi đã lầm, sau khi nhận được lá thơ tám trang thứ hai của vị chỉ huy cũ viết từ Falls Church ngày 21 tháng Chín năm 1981, mà ông kể tôi nghe những chông gai, đau xót của cảnh di tản. Và tôi nghiệm ra rằng: trong mọi hoàn cảnh, hạnh phúc và đau khổ luôn luôn thấm nhập và ẩn tàng vào nhau; vươn lên khỏi thăng trầm để sống tốt cho đời và cho nhân quần mới thật khó và đáng quý.
Tháng Tư năm 2021 là 40 năm kể từ ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ, tôi vẫn còn giữ lá thư đầy tình nhà nợ nước mà Chỉ Huy Trưởng đã viết cho tôi như một kỷ niệm, một dấu ấn trong đời, dù do năm đầu tiên ở thuê nhà với anh em, mái garage bị dột đã thấm ướt lá thơ, đôi chữ nhạt nhòa…
Theo cha mẹ, tôi di cư vào miền Nam năm lên chín tuổi, bỏ nước ra đi với một bộ đồ trên người năm 35 tuổi, chưa một lần trở lại quê nhà. Thấm thoắt tôi đã ở Mỹ 40 năm, dài hơn thời gian tôi sống ở hai miền Nam Bắc. Tôi đã thực sự thành người viễn xứ. Mỗi tháng Tư về lòng vẫn khắc khoải, nhớ miên man, và nhiều lần tôi đã lấy lá thư của vị chỉ huy cũ gởi cho tôi khi tôi vừa đến Mỹ ra đọc, mà tưởng chừng sự việc như vừa mới xảy ra. Nhanh quá, đã 46 năm đất Mẹ quy về một mối thống nhất điêu linh, với chia ly và thống khổ.
Falls Church ngày 21-9-81
Chú Huy,
Chiều nay đi làm về thấy thư Chú đặt sẵn trên bàn. Mừng vô hạn. Một trong những điều mong đợi hơn 6 năm biệt xứ nay đã đến . Thứ nhất là một trong những anh em thân cận nhất của mình thoát được giặc. Hai là thấy số đông anh em mình dù là trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn không quên nhau, tìm đến nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Điều thứ 3 là, 6 năm nay tôi trông đợi một người nào có thể thuật lại cho tôi tường tận những gì đã xảy ra cho anh em bà con mình trong những ngày giờ khốn cùng nhất, mà lương tâm mình ray rứt không nguôi từ chiều 29/4/75 đến nay.
Chú còn nhớ sáng thứ hai 28/4/75 tôi còn đến trường, 32 học viên đại tá sáng đó không thiếu một ai, cả ban giảng huấn đầy đủ, thảo luận vấn đề di tản có nằm trong hoạch định chính phủ không, ai đi, ai ở, ai đi trước, vì sao Mỹ đến nhà từng người bạn VN rủ đi, v..v…
Chú Huy ơi, trong lúc ở nhà mình phỏng đoán một ngàn lẻ một giải pháp, thì từ ba tháng trước, một mặt… dọn trại tạm cư, một mặt đưa lên TV phỉ báng nào là VN hèn nhát, tham nhũng v…v người ta làm dê tế thần… Tôi còn nhớ những đêm tôi và chú đi bách bộ trong trại, kiểm điểm những dữ kiện, và cố đoán ngày sau ra sao…
***
Biên giới, đất liền, hải đảo… đã mất dần – ôi! cái giá máu của “thống nhất đất nước”.
Khi đảng Cộng Sản Việt Nam đặt lý tưởng cộng sản không tưởng lên trên sinh mệnh dân tộc, thì bất cứ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nào cũng chỉ là con cờ thí để Hoa Kỳ, Trung Cộng, Liên Xô trao đổi quyền lợi. Làm sao nói hết được nỗi nhục cõng rắn cắn gà nhà và gà cùng một mẹ bôi mặt đá nhau?
Mỗi năm, tháng Tư về, đọc các bài viết, những lá thư… đề cập tới cuộc chiến oan nghiệt khiến người dân Việt tản mác khắp nơi, tôi vẫn nghĩ không phải để “than mây khóc gió” mà đó là những mối dây ràng buộc giúp đàn con nước Việt khắng khít cùng nhau, đem tài đức cống hiến cho quê hương khi lịch sử dân tộc bước sang một trang mới.