1/- SỨC MẠNH TỪ CHỮ VIẾT- THƠ
Tôi là kẻ quen nghiệp viết văn
Giấy, bút bị lấy mất
Đêm đen thăm thẳm lạnh căm
Chép Thơ trên mười ngón tay tính nhẩm
Chữ nghĩa mơ hồ vụn vỡ
Mất ngay đi
Vỡ thần kinh kiệt sức
Năm tháng chốn kiên giam
Biền biền khối đen dầy hơn ánh sáng…
Nhằm tự cứu
Hằng nhẫm đọc dòng Thơ
Ngũ ngôn, lục bát đơn giản ngắn vần
Gắng sống lần hồi trên giải đinh nhọn sắt
Với Thơ,
Để không yếu hèn bật khóc
Từ Thơ,
Nguồn an ủi, nhắn nhủ dài lâu
Mỗi điều nhiên hậu
Người vẫn là Người
Phải luôn vượt sống
Dẫu trùng trùng ngút lửa rợn khổ đau…
Ồ lạ lùng những chữ, nghĩa, lời, câu
Đỡ gánh nặng kiệt cùng, giúp sức thêm mạnh mẽ
Đứng vững vàng,
Hiên ngang lên đường bước chân bền chắc
Ý, Ngôn, Từ… rạng rỡ
Sáng SỰ THẬT mở ra
Chuỗi ngặt điêu linh
Tủi nhục, phiền hà…
Thơ chống giữ cùng ta
Bừng bừng kiêu hãnh
Thơ chắp cánh lên cao xa hùng vĩ
Đặt bàn tay nhân ái động từ tâm
Thơ linh động nhịp tim
Thơ thúc giục trông tìm
Sáng Chân Lý giữa chập chùng Vô Nghĩa
Người được sống
Nhận Hồng Ân Thi Sĩ
Rất nhiệm mầu, nguồn vô tận từ Thơ
Trên môi khô, lưỡi đắng, sự chết…
Hừng hực lửa vô hồi
Người Phục Sinh với Thơ
Giòng sống động tràn đầy ân thân thiết
Thơ nâng Người qua vượt sự chết
Bền chắc kết kim cương
Thành Thơ,
Lực vô hạn giữa trần gian bão táp
Thơ khơi động nguồn thanh tân tiếng hát
Nhận khổ đau bình thản nhẹ nụ cười
Thơ trong Người
Nồng nàn máu tự thân
Cây Đời Sống luôn đầy ắp vun xới
Thơ mở lối đi
Ngày Hôm Nay Rộ Mới
Người và Thơ chăm sóc, nâng đỡ từng giờ
Lần đêm khuya, thấm thống nhục tràn bờ
Qua sáng sớm, trưa, chiều,
Vượt từng phút giờ hấp hối
Vững vàng, hiên ngang, âm âm tim phơi phới
Hận thù, tăm tối, hèn hạ, nhỏ nhen,
chủ nghĩa, giáo điều, hờn căm, ngụy tín…
Tất cả Hóa Không – Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ
Người vô vàn vinh hiển
Viết xuống – Sống cùng Thơ.
Sài Gòn,
Ra tù, viết lại để nhớ
30 Tháng Tư 1975 – 19 Tháng 6 1989
2/-TRƯA LONG GIAO
Gởi Cao Xuân Hiệp,
Đặng Ái Văn và Nguyễn Xuân Trung
Qua trưa, ngực nặng bồn chồn
Tưởng em xao xác trên đường nắng loang
Chiều mưa bong bóng bập bùng
Nhớ con, âm động vọng thành cơn giông
Mùa Hè 75, Long Giao, Long Khánh, miền Nam
3/- MỘT NGÀY LONG GIAO
Buổi sáng Long Giao mờ hơi sương
Kẻng đánh rền vang giục lên đường
Trên nền đất lạnh tay che mặt
Đau nhục thấm sâu từng khớp sương.
Buổi trưa Long Giao hầm hập nắng
Cành lá sững im, cây chết lặng
Ngoài đường xao xác dạng con thơ
Đau nhói nơi tim, ngực thở nặng.
Buổi chiều Long Giao ứa máu đỏ
Run rẩy cỏ vàng khô se gió
Tiếng sắt, tiếng chì, loa phóng thanh
Vạn gã tù im, chìm nỗi sợ
Ban đêm Long Giao không tiếng người
Nghe rõ điêu tàn tận hơi thở
Tội nghiệp đớn đau mỗi giấc mơ
Chập chờn âm khốc lũ ma trơi.
Long Giao, Mùa Hè 1976
4/-QUA PHÀ ÂU LÂU
Đi đâu
Đi tới đâu?
Bước xuống phà Âu Lâu…
Sông Hồng âm âm sóng
Nắng vàng vọt giãi dầu
Đoàn tù im bước chậm
Lạc ánh mắt đậm sầu
Mũi súng chăn rờn rợn
Tóc ngã màu gió bay
Bên kia sông…
Rừng sâu
Đầu nguồn xanh xám đục
Mây mù giăng khói lạnh
Tiếng chim buồn đâu đây
Khó khăn! Hằng khắc phục (*)
Phận tù… Tận thấm nhục
Chim ơi… Ta hiểu lời
Mối muôn vàn thương mến
Vỗ về tự thinh không
(*) Một loại chim núi, kêu theo âm “Khó khăn khắc phục”
23 Tháng Sáu 1976. Đến Yên Bái
5/-NHỮNG NGÀY KHÔNG THỂ QUÊN
Buổi sáng run rẩy lãnh dao con
Rét đậm da nứt thịt đỏ hỏn
Mờ mờ sương trắng dựng sườn non
Từng thước trườn lên…
Từng thước khốn
Lũng sâu mờ tối nước róc rách
Suối thẫm bóng xanh mờ khí lạnh
Ngẫm thân thua trận nhận cùng đành
Ba-mươi vừa qua…
Tóc bạc nhanh
Chênh vênh triền vực được một cây
Lê lết mần mò giữa truông mây
Đưa tay vuốt mặt ngỡ mưa gấp
Nước mắt trào cay đâu có hay…
Ta ngồi thở nghẹn trên bó nứa
Chiều xuống âm âm thèm chút lửa
Giờ này nắng ấm nơi quê xa
Ngực nặng nhói đau tưởng máu ứa
Còng lưng cúi xuống… Nứa chất cao
Run rẩy, gập ghềnh bước lao đao
Mười ngón chân trần trì đá sắt
Lặng im trong tim, ghìm nhói đau
Qua được một ngày, mừng một ngày
Ngủ quên phần đêm, yên từng đêm
Mất nước.
Nhà tan.
Thân hẳn chết.
Buồn vui còn gì…
Một cõi riêng.
Một ngày Mùa Đông 1976; Trại 12, Hoàng Liên Sơn
6/- LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG (1)
Đế quốc nguyên ngày được dăm gốc (2)
Rễ luồng xuống sâu hơn một thước
Bùn đen, nước đọng quá nhiều năm
Mục thối da chân, đông rét đậm
Cuốc, xới, bới, đào… Được bãi sình
Ngang, dọc, ngắn, dài vài sào ruộng
Cán bộ hân hoan câu phẩm bình
Bàn tay người – Khả năng chất lượng!”
Bước tới, phá đồi ta xây đập
Bề ngang thung lũng, tay ta lấp
Giòng suối lẩn khuất dưới tranh dầy
Nay chận bít đầu – Nên trũng ngập
Có nước ta thắng lợi hơn trước
Nước vào bãi lầy thậm khẩn cấp
Rừng núi đổi thay nên ruộng đồng
“Đảng Ta” tiên liệu – Ôi siêu việt!
Nổi trống, giương cờ buổi lập xuân
Giục giã thi đua tăng lao động
Quần áo đội đầu, phơi xác thân
Tù nhân xuống đồng… Trần như nhộng
Đi qua, đi lại… Sục cỏ lúa
Đỉa đói giương vòi, ghê đám sứa
Gió Bấc buốt đau, tóc úa màu
Nước lạnh siết sâu, lưỡi dao cứa
Ngang, dọc giẫm hoài…
Ngày qua ngày
Lũ tù rạt rày từng bước gãy
Trên đầu mưa phùn giăng giăng bay
Cái giống con người… Lặt lừ nước bạc!
Làm cỏ đợt hai tiếp đợt ba
Lúa lên xanh đồng nên con gái
Một đêm lũ dâng thậm bất ngờ
Sáng đồng trống không lơ thơ cành gai!
Không sợ! Ta quyết bắt đầu lại
Với tim sắt thép chẳng quản ngại
Chiến thắng càng khó – Rõ vinh quang
Hiên ngang xông tới – “Lời Bác dạy”!
Chiêm Xuân ta chuyển sang Hè-Thu
Kinh nghiệm lần này, ta có đủ
Lúa kỳ thâu hoạch ắt bội dư
Ta đoạt bạc vàng từ rừng rú!
…..
Một đêm khẩn cấp lệnh chuyển trại
Ba-lô, gồng gánh tù vác vai
Ngang qua đám ruộng con bò cười
Nhẩn nha đứng nhai đám lúa trụi…
……
Uổng sức thay trâu cày bừa sâu
Uổng ngàn công nửa năm lao động
Uổng tiền, uổng lúa, uổng thóc giống
Mất sạch,
Toi công
Đồ… Việt Cộng
Đề tài về Lao Động, Học tập chính trị trong trại tù, khắp Miền Nam sau 1975
(2) Loại sậy thân lớn, cứng như mía lau
7/- CÔ GÁI TRÊN NÚI SỚM XUÂN
Em đứng trên đồi cao
Sáng Xuân mù mưa núi
Đá tai mèo gờn gợn
Rét buốt sắc đường dao
Mong manh tấm áo cũ
Lồ lộ dáng thanh tân
Xót xa phơi bầu vú
Lộng lẫy ngực nữ thần
Mắt xanh biếc sắc ngọc
Môi đỏ hồng màu son
…
Ôi em đang tuổi hoa
Loài hoa tàn bất hạnh
Em chứng thực đọa đầy
Lấm bùn se lá cỏ
Những ngón chân đỏ hồng
Nhức nhối ngày rét đậm
Mười ngón tay căng phồng
Lượm nhặt hạt lúa thảm
Nương gặt hết còn đâu
Giúp em qua khổ đói
Đá khô lạnh rầu rầu
Đất nào nuôi người nổi!
Em bao tuổi hỡi em?
Thanh thoát cao nét đẹp
Hoa sen chìm vũng khổ
Vùi dập đời tối đen
Sáng Xuân, mồng Hai Tết Mậu Ngọ, Hoàng Liên Sơn 1978
8/- NGƯỜI NỮ TÙ NHỎ TUỔI
Trông em tuổi độ thanh xuân
Môi khô chết bặt, lạnh tanh tiếng cười
Gánh đá nặng, nát lưng người
Một đầu tóc rối, tơi bời cỏ gai
Chân trần, gót nứt, dầy chai
Ngực hong gió lạnh, tay gầy gân xanh
Cảm thương phận khổ cũng đành
Lặng thinh cắn đọt lá dừa cầm hơi
Sớm đông giá trắng lưng đồi
Tím thâm da thịt, chập chùng bước chân
Đưa tay vuốt lớp mưa bay
Cho em khóc trộm đọa đầy riêng thân
Ngày sau chép sử nhớ lần
Chen trong “sự nghiệp” có phần máu rây! (*)
(*) “Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”- Khẩu hiệu chiến lược của Đảng Cộng Sản Hà Nội.
Trọng Đông 1978, Trại 5 Lam Sơn, Phân trại A/Trại Nữ, Thanh Hóa