Các bệnh viện đang hoạt động tốt hơn về các chỉ số chất lượng và an toàn so với thời điểm trước đại dịch, mặc dù số bệnh nhân vẫn tăng.
Theo báo cáo mới từ Hiệp Hội Bệnh Viện Hoa Kỳ (American Hospital Association) và Vizient, một công ty cải thiện hiệu suất chăm sóc sức khỏe. Các tổ chức phân tích dữ liệu từ cơ sở dữ liệu lâm sàng của Vizient (Vizient’s Clinical Data Base), nơi chứa thông tin của hơn 1,300 bệnh viện và thu thập dữ liệu về hơn 10 triệu bệnh nhân nội trú và 180 triệu bệnh nhân ngoại trú mỗi năm.
Trong quý đầu tiên của năm nay, bệnh nhân nhập viện, mặc dù phải đối mặt với các vấn đề sức khỏe phức tạp, cấp tính hơn, nhưng có tỷ lệ sống sót cao hơn 20% so với dự kiến, dựa trên mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh so với quý IV năm 2019, theo báo cáo.
Từ Tháng Tư năm 2023 đến Tháng Ba năm 2024, phân tích cho thấy 200,000 bệnh nhân sống sót sau các đợt bệnh có khả năng tử vong vào năm 2019. Tỷ lệ tử vong và các tình trạng mắc phải tại bệnh viện, bao gồm nhiễm trùng máu liên quan đến đường truyền trung tâm và nhiễm trùng đường tiết niệu liên quan đến ống thông, giảm trong 5 năm qua.
Bác Sĩ David Levine, giám đốc y khoa tại Vizient, nói với Newsweek: “Nghiên cứu này cho phép chúng tôi chứng minh rằng mọi thứ trở lại đúng hướng, sự cải thiện diễn ra trước năm 2019 nay lấy lại đà phát triển.”
Đại dịch COVID-19 làm gián đoạn chuỗi cung ứng và cắt đứt kết nối vật lý của hệ thống y tế với bệnh nhân. Đại dịch cũng ảnh hưởng đến ngân sách của các tổ chức chăm sóc sức khỏe. Hiệp Hội Bệnh Viện Hoa Kỳ ước tính các bệnh viện và hệ thống y tế của quốc gia mất $202.6 tỷ từ ngày 1 Tháng Ba năm 2020 đến ngày 30 Tháng Sáu năm 2020, hoặc trung bình $50 tỷ/tháng, do mất doanh thu và chi phí COVID-19 bổ sung.
Một trong những vấn đề dai dẳng nhất là tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động. Theo Hội Đồng Quốc Gia của Hội Đồng Điều Dưỡng Tiểu Bang (National Council of State Boards of Nursing), khoảng 100,000 y tá rời bỏ nghề trong đại dịch. Nhiều người trong số họ có tuổi nghề cao, giàu kinh nghiệm.
Bác Sĩ Steven Diaz, giám đốc y khoa tại MaineGeneral Health kể, Maine có dân số trung bình già nhất trong bất kỳ tiểu bang nào của Hoa Kỳ, nhiều y tá của hệ thống y tế từng làm việc ở đó trong nhiều thập niên. Sau khi họ phải nghỉ vì COVID-19, các y tá mới không còn điều kiện để học hỏi như những người tiền nhiệm của mình.
Các hệ thống y tế dựa vào y tá lưu động để thay thế cho khoảng trống về nhân sự, nhưng nhu cầu tăng cao khiến điều này trở nên tốn kém. Trong Tháng Giêng năm 2021, y tá lưu động kiếm được gấp 3.4 lần lương của y tá toàn thời gian. Các bệnh viện không thể cạnh tranh với mức lương đó, vì vậy họ đã mất nhân lực.
Sau đó, hệ thống y tế có trụ sở tại Augusta, Maine đặt mục tiêu trở lại lực lượng lao động ổn định. UVA Health có trụ sở tại Charlottesville, Virginia cũng đưa những y tá hợp đồng vào để duy trì tỷ lệ nhân viên y tá trên bệnh nhân trong suốt thời kỳ đại dịch. Gần đây, họ nỗ lực chuyển đổi nhiều y tá hợp đồng thành nhân viên toàn thời gian.
Để làm được như vậy, hệ thống y tế phải tạo ra một nền văn hóa mà mọi người muốn bám rễ, Hoke cho biết. Hệ thống này đang hướng tới một hệ thống quản lý “độ tin cậy cao,” được Cơ Quan Nghiên Cứu và Chất Lượng Chăm Sóc Sức Khỏe (Agency for Healthcare Research and Quality) định nghĩa là “các tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực phức tạp, nguy hiểm cao trong thời gian dài mà không xảy ra tai nạn nghiêm trọng hoặc sự cố thảm khốc.”
“Mọi bệnh viện ở Hoa Kỳ đều đang cố gắng vận hành một hệ thống có độ tin cậy cao,” Hoke nói. Vì nhiều nhân viên mới được UVA Health tuyển dụng là những người mới tốt nghiệp, nên hệ thống y tế đã đặt ra những kỳ vọng đơn giản, dễ hiểu. Diaz cũng lưu ý đến sự khác biệt giữa các thế hệ tại MaineGeneral. Các y tá trẻ có xu hướng sử dụng tốc ký và từ viết tắt mà đồng nghiệp của họ không phải lúc nào cũng có thể dịch được. Hệ thống y tế đã tập trung vào giao tiếp trực tiếp và xem lại các kịch bản chuẩn để tương tác với bệnh nhân và gia đình.
Tổ chức này cũng yêu cầu nhân viên hạn chế sử dụng điện thoại, giao tiếp bằng mắt và mỉm cười với bệnh nhân nhiều hơn. Bằng cách tập trung vào việc duy trì và thường xuyên xem lại chương trình đào tạo cho những người đi công tác và nhân viên mới được tuyển dụng, hệ thống y tế giảm tỷ lệ lây nhiễm như trong thời đại dịch.