Trong chuyến công du Budapest cuối Tháng Hai, 2024, bộ trưởng Công An Trung Quốc, ông Vương Tiểu Hồng (Wang Xiaohong), đã gặp trực tiếp Thủ Tướng Hungary Viktor Orban để thiết lập một thỏa thuận an ninh song phương mới.
Trung Quốc và Hungary nhất trí hợp tác về thực thi pháp luật, trị an và chống khủng bố, đặt quan hệ an ninh làm trung tâm trong mối quan hệ hai bên…
Thời của chính sách ngoại giao ‘hai hàng’
Theo nhiều cách, đó là một thỏa thuận… quái đản, vì Hungary là thành viên liên minh an ninh NATO, có nghĩa họ được bảo vệ khỏi bị tấn công vũ trang. Tuy nhiên, việc Budapest theo đuổi mối quan hệ an ninh cùng lúc với Bắc Kinh lẫn Washington là một ví dụ đáng chú ý về xu hướng toàn cầu. Các mối quan hệ an ninh chồng chéo ngày càng phổ biến. Papua New Guinea, Sierra Leone, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Việt Nam đều đang chơi… “hai hàng,” vừa bắt tay hợp tác an ninh với Mỹ, vừa móc nối với Trung Quốc để giúp vấn đề trị an trong nước.
Việc một quốc gia theo đuổi hợp tác an ninh với hai cường quốc đang cạnh tranh nhau trực tiếp thoạt nhìn có vẻ không bình thường và thậm chí đầy rủi ro. Nếu đất nước này đã nhận được sự hỗ trợ an ninh đáng tin cậy từ một cường quốc, việc tìm kiếm mối quan hệ đối tác với nước kia có thể khiến mối quan hệ hiện tại rơi vào tình trạng nguy hiểm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều quốc gia đang níu áo Mỹ lẫn Trung Quốc, thay vì chỉ chọn một. Vấn đề ở chỗ, cho đến nay, Washington và Bắc Kinh đều cho phép điều đó xảy ra.
Ưu tiên chính của Hoa Kỳ là an ninh khu vực: Bảo vệ các đồng minh và đối tác chống lại các mối đe dọa từ các nước láng giềng, cung cấp khả năng răn đe nguyên tử mở rộng và đối phó các nhóm khủng bố xuyên quốc gia. Washington đã xây dựng một mạng lưới đồng minh bằng các hiệp ước phòng thủ chung cũng như các quan hệ đối tác an ninh song phương nhằm giải quyết những thách thức đe dọa hòa bình.
Trong khi đó, Trung Quốc cung cấp những “sản phẩm” trị an nhằm giúp bảo vệ chế độ cho các quốc gia đối tác. Thông qua hợp tác về thực thi pháp luật và các biện pháp an ninh công cộng như giám sát kỹ thuật số, đào tạo cảnh sát, ứng phó với biểu tình bạo loạn, Bắc Kinh giúp các đối tác duy trì quyền kiểm soát trong nước họ.
Lợi và hại khi đi với chính sách ‘đu dây’
Hoa Kỳ tập trung vào an ninh khu vực, phát triển và triển khai sức mạnh quân sự để giúp các đối tác cân bằng, ngăn chặn và chống lại các mối đe dọa bên ngoài. Chiến lược an ninh quốc gia Hoa Kỳ năm 2022 nhấn mạnh tầm quan trọng của “mạng lưới liên minh và đối tác chưa từng có của Hoa Kỳ” và vai trò của quân đội Mỹ trong việc “hỗ trợ ngoại giao, đối đầu với sự xâm lược, ngăn chặn xung đột, phát huy sức mạnh nhằm cuối cùng bảo vệ người dân Mỹ cũng như lợi ích kinh tế của họ.”
Trong khi đó, khái niệm an ninh quốc gia của nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình dựa trên “an ninh chính trị,” tức cung cấp “sản phẩm an ninh” giúp bảo vệ hệ thống cai trị.
Dựa vào thực tế này, nhiều nước đang tận dụng, chính xác hơn là lợi dụng, cuộc cạnh tranh an ninh giữa Mỹ và Trung Quốc. Hungary là một trường hợp. Chính sách bang giao Trung Quốc của nước này từ lâu đã khác biệt với các đối tác Châu Âu. Hungary là quốc gia EU đầu tiên tham gia “Sáng Kiến Vành Đai Và Con Đường” của Trung Quốc. Bằng cách cản trở viện trợ Châu Âu cho Ukraine và trì hoãn việc Thụy Điển gia nhập NATO để ngầm ủng hộ các mục tiêu của Nga, Hungary cho thấy họ sẵn sàng gây sự với các cường quốc để đạt được những nhượng bộ.
Cho đến nay, Budapest vẫn duy trì được sự cân bằng này. Là đồng minh NATO, Hungary được hưởng an ninh bên ngoài do Hoa Kỳ cung cấp. Nhưng khi chính phủ Viktor Orban tấn công và làm suy yếu các thể chế dân chủ trong nước họ, Budapest lại được hưởng lợi từ mối quan hệ đối tác an ninh với Bắc Kinh. Không lâu nữa, người ta sẽ thấy cảnh sát Trung Quốc tuần tra trên đường phố Hungary!
Trong cuộc gặp Bộ Trưởng Công An Trung Quốc Vương Tiểu Hồng, Bộ Trưởng Nội Vụ Hungary Sandor Pinter đã lặp lại luận điệu Trung Quốc, nhấn mạnh việc “bảo đảm an ninh và ổn định” là điều kiện tiên quyết cho mối quan hệ tốt đẹp.
Việt Nam là một ví dụ khác. Tháng Chín, 2023, trong chuyến công du Hà Nội của Tổng Thống Joe Biden, Hoa Kỳ và Việt Nam tuyên bố nâng cấp mối quan hệ lên “đối tác chiến lược toàn diện.” Một thập niên qua, Hà Nội và Washington liên tục tăng cường hợp tác an ninh nhằm đối phó trực tiếp với mối đe dọa an ninh quốc gia mà Trung Quốc đặt ra ở khu vực sát sườn Việt Nam. Hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt phát triển mạnh nhất trong lĩnh vực hàng hải. Những năm gần đây, Việt Nam trở thành hải cảng được hàng không mẫu hạm Mỹ thường xuyên ghé đến.
Tuy nhiên, ba tháng sau chuyến thăm Hà Nội của Biden, đến lượt Tập Cận Bình. Tháng Mười Hai, 2023, Tập Cận Bình đến Hà Nội nhằm củng cố chiến lược hợp tác toàn diện. Cuộc trò chuyện giữa những kẻ chóp bu lãnh đạo hai nước tập trung vào việc củng cố sự cai trị của đảng cộng sản ở cả hai nước. Tập tuyên bố rằng Bắc Kinh và Hà Nội sẽ “cố gắng ngăn chặn, xoa dịu và kiềm chế mọi loại rủi ro chính trị và an ninh,” không chỉ các mối đe dọa an ninh quốc gia mà còn cả các mối đe dọa nhằm vào đảng cộng sản và giới lãnh đạo hai nước.
Bắc Kinh cam kết hỗ trợ Hà Nội bằng các biện pháp an ninh nội bộ thiết thực, trong đó có việc chia sẻ thông tin tình báo và tăng cường hợp tác cảnh sát giữa hai quốc gia. Hai nước nhất trí nỗ lực chung nhằm ngăn chặn bất ổn nội an, bài trừ “chủ nghĩa ly khai” và “cách mạng màu,” một thuật ngữ gợi lên mối lo ngại chung của Trung Quốc và Việt Nam về sự can thiệp của nước ngoài và những hoạt động đối lập có thể lật đổ đảng cầm quyền dẫn đến dân chủ hóa.
Mới đây, ngày 19 Tháng Tư, 2024, Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương Phan Đình Trạc đã tiếp Bộ Trưởng Tư Pháp Trung Quốc Hạ Vinh tại Hà Nội, nhằm “nhất trí thiết lập cơ chế hội nghị tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc,” đồng thời “tăng cường hợp tác giữa hai bộ tư pháp nói riêng và trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật nói chung.”
Theo một cách nào đó, nhìn chung, hai quan hệ đối tác an ninh của Việt Nam được thiết lập để cân bằng lẫn nhau: Hà Nội tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để chống lại mối đe dọa an ninh bên ngoài từ Trung Quốc, cùng lúc lại tìm kiếm sự hỗ trợ Trung Quốc để chống lại mối đe dọa đối với thể chế cai trị, mà họ cho rằng, nó luôn bị đe dọa, ít nhất một phần, từ… những nỗ lực thúc đẩy dân chủ của Mỹ!
Trong thực tế, như đã nói, không chỉ Việt Nam và Hungary mới chơi trò “bắt cá hai tay.” Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đã cậy nhờ sự hỗ trợ Trung Quốc giúp các cơ quan nội an của họ, trong khi vẫn liếc mắt đưa tình với Mỹ để được hỗ trợ quân sự. Djibouti đã đồng ý làm nơi đặt căn cứ cho cả quân đội Mỹ lẫn Trung Quốc. Singapore đã định vị họ là đối tác an ninh cho Washington lẫn Bắc Kinh. Và Papua New Guinea gần đây đã ký các thỏa thuận an ninh với Hoa Kỳ…
Chính sách “hai hàng” nói chung được thiết kế nhằm vừa bảo đảm được vấn đề an ninh quốc gia (nhờ Mỹ) vừa mang lại an toàn an ninh nội chính (nhờ Trung Quốc); đặc biệt khi các nhà lãnh đạo độc tài luôn lo sợ rằng sự hỗ trợ an ninh khu vực của Mỹ thường đi kèm những “tác dụng phụ” không mong muốn. Theo quan điểm của họ, mối quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ có thể dẫn đến việc thúc đẩy nhân quyền và tự do chính trị; và điều này có thể khiến chế độ cai trị của họ trở nên kém an toàn.
Không quốc gia nào mà tâm lý này có thể được thấy rõ bằng Việt Nam. Chế độ Cộng Sản Việt Nam, tự hào với cái gọi là “ngoại giao cây tre,” ngày càng thành thục trò đu dây. Có thể chẳng có gì đáng nói, nếu số phận quốc gia đặt dưới sự tính toán chồng chéo này có thể dẫn đến khả năng người dân Việt Nam mất trắng.
Dân chủ không có đã đành và chủ quyền quốc gia cũng mất. Suy cho cùng, Hà Nội sẵn sàng bán đứng Washington để đi theo Bắc Kinh, miễn sao chế độ cai trị còn tồn tại. Cộng Sản Việt Nam sẵn sàng từ bỏ những hòn đảo xa xôi để giữ lấy chiếc ghế cai trị trước mặt.