LTS: Trung Quốc đang tất bật chuẩn bị loạt lễ hội kỷ niệm 100 năm thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) – đảng chính trị lớn nhất và mạnh nhất hành tinh. Do sự tương đồng về ý thức hệ và thể chế giữa Trung Quốc và Việt Nam, những vấn đề của ĐCSTQ cũng giúp ta hiểu biết những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt. Trang Diễn đàn của SGN sẽ giới thiệu một số bài nghiên cứu, phân tích và bình luận về đề tài này để độc giả theo dõi. Những ý kiến trình bày trong các bài là của các tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của tòa soạn SGN.
Bài liên quan:
- Đảng không tồn tại mãi mãi
- Bốn gánh nặng đè lên Tập Cận Bình
- Trung Quốc ‘mơ’ được ‘đáng tin, đáng yêu và đáng kính’
- Trung Quốc một trăm năm cô đơn
Tập Cận Bình là người đang thực hiện một sứ mệnh. Sau khi lên nắm quyền vào cuối năm 2012, ông ta đã nhanh chóng củng cố quyền lực chính trị, thanh lọc đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khỏi nạn tham nhũng tràn lan, gạt kẻ thù sang một bên, thuần hóa các tập đoàn tài chính và công nghệ có thời bay cao của Trung Quốc, dẹp tan bất đồng nội bộ và mạnh mẽ áp đặt ảnh hưởng của Trung Quốc lên chính trường quốc tế. Với danh nghĩa bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, Tập đã gây thù với nhiều nước láng giềng và kết oán với các quốc gia ở xa — đặc biệt là Hoa Kỳ.
Trong khi những người tiền nhiệm của ông tin rằng Trung Quốc phải tiếp tục tận dụng thời gian bằng cách trông chừng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và sự mở rộng đều đặn ảnh hưởng của Trung Quốc qua việc hội nhập mang tính chiến thuật vào trật tự toàn cầu hiện tồn, thì ông Tập lại thiếu kiên nhẫn với hiện trạng, sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao, và dường như ông cảm thấy một cảm giác cấp bách rõ rệt trong việc thách thức trật tự quốc tế.
Tại sao ông ta lại vội vã như vậy? Đa số các nhà quan sát đều chấp nhận một trong hai giả thuyết hoàn toàn trái ngược nhau. Giả thuyết thứ nhất cho rằng Tập đang thúc đẩy một loạt sáng kiến chính sách nhắm tới mục đích không gì khác hơn là thiết lập lại trật tự toàn cầu theo những điều kiện có lợi cho ĐCSTQ. Cách nhìn khác khẳng định rằng ông ta là một người giám sát đầy lo lắng một hệ thống chính trị theo chủ nghĩa Lenin lỗi thời và tồi tàn đang đấu tranh để giữ vững quyền lực. Cả hai câu chuyện đều chứa đựng các yếu tố của sự thật, nhưng không giải thích thỏa đáng nguồn gốc của cảm giác cấp bách của Tập.
Một lời giải thích chính xác hơn là các tính toán của Tập được quyết định không phải bởi nguyện vọng hay nỗi sợ hãi cá nhân mà bởi dòng thời gian của ông ta. Nói một cách đơn giản, Tập đã thâu tóm quá nhiều quyền lực và làm đảo lộn hiện trạng với một sức mạnh như vậy bởi vì ông ta nhận thấy một cơ hội hẹp, chỉ từ 10 đến 15 năm, trong đó Bắc Kinh có thể tận dụng một loạt các chuyển đổi công nghệ và địa chính trị quan trọng để giúp Trung Quốc vượt qua những thách thức nội bộ đáng kể. Ông Tập coi sự hội tụ của những lực cản mạnh về nhân khẩu học, sự suy giảm cơ cấu kinh tế, những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ kỹ thuật số và cái được cho là sự chuyển dịch cán cân quyền lực toàn cầu ra khỏi Hoa Kỳ như là những điều mà ông ta gọi là “những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ”, đòi hỏi một tập hợp táo bạo các phản ứng ngay lập tức.
Bằng cách thu hẹp tầm nhìn vào giai đoạn 10 đến 15 năm tới, ông Tập đã truyền cho hệ thống chính trị Trung Quốc cái ý thức tập trung và quyết tâm có thể giúp Trung Quốc vượt qua những thách thức nội bộ lâu dài và đạt được đẳng cấp mới về tính trung tâm toàn cầu. Nếu ông Tập thành công, Trung Quốc sẽ tự định vị như một kiến trúc sư của kỷ nguyên đa cực mới nổi, nền kinh tế của nước này sẽ thoát khỏi cái gọi là bẫy thu nhập trung bình, và năng lực công nghệ của lĩnh vực sản xuất và quân sự sẽ sánh ngang với các nước phát triển hơn.
Tuy nhiên, tham vọng và sự thực hiện tham vọng không phải là một, và ông Tập hiện đã đặt Trung Quốc vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông đã đạt được trong thời kỳ hậu Mao. Niềm tin của ông ta rằng ĐCSTQ phải định hướng nền kinh tế và Bắc Kinh phải kiềm chế khu vực tư nhân sẽ hạn chế sự tăng trưởng kinh tế của đất nước trong tương lai. Yêu cầu của ông ta cán bộ đảng phải tuân theo sự chính thống về ý thức hệ và thể hiện lòng trung thành cá nhân đối với ông ta sẽ làm suy yếu tính linh hoạt và năng lực của hệ thống quản trị quốc gia. Sự nhấn mạnh của ông ta vào một định nghĩa mở rộng về an ninh quốc gia sẽ lèo lái đất nước theo hướng hướng nội và hoang tưởng hơn. Việc ông tung ra chủ nghĩa dân tộc “Chiến binh Sói” sẽ tạo ra một Trung Quốc hung hăng và bị cô lập hơn. Cuối cùng, vị trí ngày càng độc tôn của Tập trong hệ thống chính trị Trung Quốc sẽ ngăn cản các lựa chọn chính sách thay thế và điều chỉnh đường lối, một vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi ông loại bỏ các giới hạn nhiệm kỳ và viễn cảnh ông cầm quyền vô thời hạn.
Tập tin rằng ông ta có thể nhào nặn tương lai của Trung Quốc giống như các hoàng đế trong quá khứ lâu đời của đất nước. Ông ta nhầm lẫn sự kiêu ngạo ấy với sự tự tin — và không ai dám nói khác với ông ta. Một môi trường trong đó một nhà lãnh đạo toàn năng chỉ chuyên tâm vào một hướng mà không nghe thấy những sự thật khó chịu chính là công thức dẫn đến thảm họa, như lịch sử hiện đại của Trung Quốc đã chứng minh quá rõ.
MỘT NGƯỜI HẤP TẤP
Nhìn lại, dòng thời gian bị dồn nén lại của ông Tập đã hiện rõ kể từ khi ông ta bắt đầu nhiệm kỳ. Trung Quốc đã quen với bước đi của người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào, chậm chạp và phẳng lặng, và nhiều người kỳ vọng ông Tập cũng sẽ làm như vậy, dù ông sẽ nhấn mạnh nhiều hơn vào cải cách kinh tế. Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài tháng sau khi nắm quyền vào năm 2012, Tập đã bắt đầu sắp xếp lại cục diện chính trị và kinh tế trong nước. Đầu tiên là cuộc dọn dẹp từ trên xuống dưới của ĐCSTQ. Đảng đã nhiều lần chứng tỏ có năng lực chống chọi các cơn bão trong nước, nhưng áp lực đang được tích tụ bên trong hệ thống. Tham nhũng đã trở thành bệnh dịch, dẫn đến sự bất mãn của dân chúng và phá vỡ kỷ luật của tổ chức. Hàng ngũ của đảng tăng lên nhanh chóng nhưng ngày càng đầy những cá nhân không có chung niềm tin với ông Tập vào tính chất ngoại lệ của ĐCSTQ. Các chi bộ trong doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân và các tổ chức phi chính phủ không hoạt động và vô tổ chức. Quy trình ra quyết định ở cấp cao đã trở nên thiếu phối hợp và biệt lập. Các cơ quan tuyên truyền của đảng phải vật lộn để đưa thông điệp của họ tới một tập thể công dân ngày càng hoài nghi và tinh thông công nghệ.
Ông Tập đã giải quyết tất cả những vấn đề này cùng một lúc. Chỉ riêng trong năm 2013, ông đã khởi xướng một chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng, phát động một chiến dịch “quần chúng” nhằm loại bỏ chủ nghĩa đa nguyên chính trị và các hệ tư tưởng tự do khỏi các diễn ngôn công cộng, công bố các hướng dẫn mới hạn chế sự gia tăng đảng viên và bổ sung các yêu cầu tư tưởng mới đối với các đảng viên dự bị. Ông tin rằng quy mô của đảng là không thật quan trọng nếu đảng không bao gồm những tín đồ thật sự trung thành. Sau cùng, ông lưu ý, khi Liên Xô trên bờ vực sụp đổ vào đầu những năm 1990, “theo tỷ lệ, Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều đảng viên hơn [ĐCSTQ], nhưng không ai đủ sức đứng lên và chống lại”.
Một môi trường trong đó một nhà lãnh đạo toàn năng chỉ chuyên tâm vào một hướng mà không nghe thấy những sự thật khó chịu chính là công thức dẫn đến thảm họa, như lịch sử hiện đại của Trung Quốc đã chứng minh quá rõ.
Bước kế tiếp trong chương trình nghị sự của Tập là nhu cầu khẳng định lợi ích của Trung Quốc trên trường quốc tế. Ông ta nhanh chóng bắt đầu các nỗ lực bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông, thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên vùng lãnh thổ tranh chấp ở Biển Hoa Đông, giúp thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (đôi khi được gọi là Ngân hàng BRICS), công bố một dự án cơ sở hạ tầng quốc tế khổng lồ được gọi là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), và đề nghị thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB).
Trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ đầu tiên, Tập tiếp tục thúc đẩy đường lối của mình và không có dấu hiệu giảm tốc khi ông gần kết thúc nhiệm kỳ thứ hai. Việc củng cố quyền lực của ông tiếp tục không bị gián đoạn: ông không phải đối mặt với các đối thủ chính trị thực sự, ông bãi bỏ các giới hạn nhiệm kỳ cầm quyền; và ông sắp đặt các đồng minh và những người trung thành vào các vị trí quan trọng. Các trung tâm nghiên cứu mới được dành riêng cho việc nghiên cứu các bài viết và bài phát biểu của ông, các quan chức đảng công khai tán dương trí tuệ và phẩm hạnh của ông, các quy định của đảng và các tài liệu kế hoạch của chính phủ ngày càng tuyên bố là dựa trên “Tư tưởng Tập Cận Bình”. Ông ta khẳng định sự thống trị của ĐCSTQ trong nhiều lĩnh vực rộng lớn của xã hội và đời sống kinh tế Trung Quốc, thậm chí buộc những người khổng lồ và có ảnh hưởng về kinh doanh và công nghệ phải cầu xin sự tha thứ vì họ đã không đủ trung thành với đảng. Trong khi đó, ông tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc thông qua việc thực thi quyền lực cứng, cưỡng ép kinh tế và hội nhập sâu rộng vào các tổ chức quốc tế và đa phương.
Nhiều nhà quan sát bên ngoài, kể cả tôi, lúc đầu tin rằng sự bất lực của đảng này trong việc ngăn chặn cuộc bùng phát của COVID-19 đã làm nổi bật những điểm yếu của hệ thống của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 2020, ông Tập đã có thể ca tụng các ưu điểm của quyền kiểm soát tập trung trong việc kiềm chế sự lây lan trong nước của đại dịch. Phương pháp tiếp cận bằng quả đấm sắt của Bắc Kinh để chống lại virus chẳng những đã không làm suy yếu quyền lực chính trị của ông ta, giờ đây nó đã trở thành một niềm tự hào dân tộc.
MỘT KHOẢNH KHẮC ĐỘC ĐÁO
Bước đi nhanh chóng của Tập được kích thích bởi sự hội tụ những thay đổi về địa chính trị, nhân khẩu học, kinh tế, môi trường và công nghệ. Những rủi ro mà chúng gây ra rất đáng sợ nhưng chưa hiện hữu; Bắc Kinh có một cơ hội để giải quyết chúng trước khi chúng trở thành thảm họa. Và phần thưởng tiềm năng mà chúng cung cấp thật là đáng kể.
Thay đổi lớn đầu tiên là đánh giá của Bắc Kinh rằng sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đã bước vào giai đoạn suy giảm nhanh chóng và kết quả là một kỷ nguyên mới, đa cực, đã bắt đầu, một kỷ nguyên mà Trung Quốc có thể định hình theo ý thích của mình nhiều hơn. Quan điểm này trở nên vững chắc khi các cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Iraq trở thành vũng lầy, và nó càng vững chắc sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 mà giới lãnh đạo Trung Quốc coi là hồi chuông báo tử cho uy tín toàn cầu của Hoa Kỳ. Năm 2016, sự kiện người Anh bỏ phiếu rời Liên minh châu Âu và việc Donald Trump được bầu làm tổng thống ở Hoa Kỳ đã củng cố quan điểm đồng thuận rằng Hoa Kỳ và phương Tây nói chung, đang suy thoái. Điều này cho thấy Trung Quốc có thể lựa chọn sự kiên nhẫn chiến lược và chỉ cần để cho sức mạnh của Mỹ suy yếu. Nhưng khả năng đổi mới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ do sự ra đời của chính quyền Biden mang lại – và nỗi lo ngại về cái chết của ông Tập (ông ta sẽ 82 tuổi vào năm 2035) – có nghĩa là Bắc Kinh không muốn chờ xem giai đoạn suy tàn của phương Tây sẽ kéo dài bao lâu.
Lực lượng quan trọng thứ hai mà Tập phải đương đầu là triển vọng kinh tế và nhân khẩu học của Trung Quốc đang xấu đi. Vào thời điểm ông ta nhậm chức, dân số Trung Quốc vừa già đi vừa thu hẹp lại, và đất nước này đang phải đối mặt với sự gia tăng số người nghỉ hưu sắp xảy ra, và điều đó sẽ gây căng thẳng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe và lương hưu khá yếu kém của đất nước. Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc hiện dự đoán dân số Trung Quốc sẽ đạt đỉnh vào năm 2029 và một nghiên cứu gần đây trên tạp chí The Lancet dự báo rằng dân số Trung Quốc sẽ giảm gần 50% vào cuối thế kỷ này. Mặc dù Bắc Kinh đã chấm dứt chính sách hà khắc mỗi gia đình chỉ có một đứa con vào năm 2016, nước này vẫn ghi nhận mức giảm 15% số trẻ em sinh ra trong 12 tháng qua. Trong khi đó, chính phủ ước tính rằng vào năm 2033, gần một phần ba dân số sẽ trên 60 tuổi.
Đóng góp vào những tai họa này là lực lượng lao động đang thu hẹp của Trung Quốc và mức lương tăng lên, trung bình đã tăng 10% kể từ năm 2005. Mức lương tăng lên có lợi cho người lao động, nhưng các nhà sản xuất toàn cầu đang ngày càng chuyển hoạt động ra khỏi Trung Quốc, đến các nước có chi phí thấp hơn, để lại một số lượng ngày càng nhiều các công nhân có tay nghề thấp của Trung Quốc bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Và bởi vì chỉ 12,5% lực lượng lao động của Trung Quốc đã tốt nghiệp đại học (so với 24% ở Hoa Kỳ), việc định vị phần lớn lực lượng lao động của đất nước để cạnh tranh trong những công việc đòi hỏi kỹ năng cao trong tương lai sẽ là một cuộc chiến khó khăn.
Liên quan trực tiếp đến bức tranh nhân khẩu học đáng lo ngại này là sự suy thoái của nền kinh tế Trung Quốc. Với mức tăng trưởng GDP hàng năm đã giảm từ mức cao 14% năm 2007 xuống mức một con số như hiện nay, nhiều vấn đề dài hạn mà Bắc Kinh có thể tạm gác lại giờ đây đòi hỏi phải được chú ý và phải sẵn sàng chấp nhận nỗi đau kinh tế và chính trị, từ việc giải tỏa một số lượng khổng lồ các công ty nợ nần đầm đìa đến việc yêu cầu các công ty và cá nhân phải nộp nhiều hơn vào kho thuế của nhà nước. Trọng tâm của trở ngại tăng trưởng của Trung Quốc là vấn đề năng suất. Trong vài thập niên đầu tiên của thời kỳ cải cách sau Mao, tăng năng suất là việc tương đối dễ dàng, vì nền kinh tế kế hoạch bị giải tán theo hướng có lợi cho các lực lượng thị trường; hàng loạt công dân tự nguyện rời khỏi vùng nông thôn để đến các khu vực thành thị và ven biển hứa hẹn có công việc lương cao hơn. Sau đó, khi các công ty nước ngoài mang vốn đầu tư, công nghệ và bí quyết đến nước này, hiệu quả công nghiệp tiếp tục được cải thiện. Cuối cùng, số tiền khổng lồ chi cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường bộ và đường sắt, đã thúc đẩy tính kết nối và do đó năng suất. Tất cả những điều này đã giúp một nền kinh tế nghèo và chủ yếu là nông nghiệp nhanh chóng bắt kịp với các nền kinh tế tiên tiến hơn.
Tuy nhiên, vào thời điểm ông Tập lên nắm quyền, các nhà hoạch định chính sách thấy rằng ngày càng khó duy trì động lực phát triển mà không tạo ra mức nợ không bền vững, giống như họ đã làm để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Hơn thế nữa, đất nước đã bão hòa với cơ sở hạ tầng giao thông, vì vậy thêm một dặm đường bộ hoặc đường sắt cao tốc không còn đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế. Và bởi vì hầu hết tất cả những người lao động có sức khỏe đều đã chuyển từ nông thôn ra thành thị, nên bố trí lại lao động cũng sẽ không chặn đứng được đà suy giảm năng suất. Cuối cùng, các chi phí xã hội và môi trường của mô hình tăng trưởng trước đây của Trung Quốc đã trở nên vừa không bền vững vừa gây mất ổn định; ô nhiễm không khí và sự tàn phá môi trường đáng kinh ngạc đã gây ra sự tức giận dữ dội trong công dân Trung Quốc.
Có lẽ những thay đổi mang tính hệ quả nhất đã xảy ra dưới sự giám sát của ông Tập là những bước tiến trong các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, người máy và kỹ thuật y sinh, cùng những tiến bộ khác. Ông Tập tin rằng việc chiếm lĩnh “tầm cao chỉ huy” những công cụ mới này sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với số phận kinh tế, quân sự và địa chính trị của Trung Quốc, và ông đã huy động đảng biến đất nước thành một cường quốc công nghệ cao. Điều này bao gồm việc chi những khoản tiền khổng lồ để phát triển nghiên cứu và phát triển của quốc gia và phát triển năng lực sản xuất trong các công nghệ được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia, từ chất bán dẫn đến bình điện. Như ông Tập đã tuyên bố vào năm 2014, lợi thế của người đi đầu sẽ thuộc về “bất kỳ ai dẫn dắt sự đổi mới khoa học và công nghệ”.
Ông Tập cũng hy vọng rằng các công nghệ mới có thể giúp ĐCSTQ vượt qua, hoặc ít nhất là tránh khỏi gần như tất cả các thách thức trong nước của Trung Quốc. Ông tin rằng những tác động tiêu cực của lực lượng lao động ngày càng thu hẹp có thể được giảm bớt nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc tự động hóa và số việc làm bị mất đi trong các ngành truyền thống có thể được bù đắp bằng cơ hội trong các lĩnh vực công nghệ cao, mới hơn. “Liệu chúng ta có thể cứng rắn trở lại trên trường quốc tế và vượt qua‘ bẫy thu nhập trung bình ’hay không phụ thuộc phần lớn vào việc nâng cao năng lực đổi mới khoa học và công nghệ”, ông Tập nói vào năm 2014.
Công nghệ mới còn phục vụ các mục đích khác. Các công cụ nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo mang đến cho các cơ quan an ninh nội bộ của Trung Quốc những cách thức mới để giám sát công dân và đàn áp những người bất đồng chính kiến. Chiến lược “kết hợp quân sự-dân sự” của đảng đang cố gắng khai thác những công nghệ mới để tăng cường đáng kể khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc. Và những tiến bộ trong công nghệ xanh mang lại triển vọng đồng thời theo đuổi sự phát triển kinh tế và giảm thiểu ô nhiễm, hai mục tiêu mà Bắc Kinh thường coi là đang trong tình trạng căng thẳng.
PHONG CÁCH HOANG TƯỞNG TRONG CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC
Sự hội tụ của những sự thay đổi và phát triển này sẽ xảy ra bất kể ai nắm quyền ở Trung Quốc vào năm 2012. Có lẽ một nhà lãnh đạo khác sẽ thực hiện một chương trình nghị sự táo bạo tương tự. Tuy nhiên, trong số các nhân vật chính trị đương thời của Trung Quốc, ông Tập đã chứng tỏ là người một kỹ năng vô song trong cuộc đấu đá nội bộ. Và ông tin tưởng rõ ràng rằng ông là một nhân vật có ý nghĩa lịch sử, là người mà số phận của ĐCSTQ phụ thuộc vào.
Để thúc đẩy những cuộc thay đổi quan trọng, ông Tập đã giám sát việc xây dựng một trật tự chính trị mới, một trật tự được củng cố bởi sự gia tăng mạnh mẽ quyền lực và quyền hành của ĐCSTQ. Tuy nhiên, ngoài sự nâng cao quyền lực của đảng, có lẽ di sản quan trọng nhất của ông Tập sẽ là sự tái định nghĩa sâu rộng về an ninh quốc gia. Ông ủng hộ “khái niệm an ninh quốc gia toàn diện” vào đầu năm 2014, và trong một bài phát biểu vào tháng Tư, ông tuyên bố rằng Trung Quốc phải đối mặt với “những yếu tố bên trong và bên ngoài phức tạp nhất trong lịch sử”. Mặc dù nhận định này rõ ràng là cường điệu – cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ ở Triều Tiên và nạn đói trên toàn quốc vào cuối những năm 1950 phức tạp hơn nhiều – thông điệp của ông Tập đối với hệ thống chính trị rất rõ ràng: đảng đang đối mặt với một kỷ nguyên mới đầy rủi ro và không chắc chắn.
Kinh nghiệm lâu dài của ĐCSTQ về hiện tượng thoái đảng, những âm mưu đảo chính và lật đổ bởi các tác nhân bên ngoài khiến cho đảng bị mắc chứng hoang tưởng cấp tính, một điều đã lên đến đỉnh điểm vào thời Mao. Ông Tập có nguy cơ thể chế hóa phong cách hoang tưởng này. Một kết quả của việc làm mờ ranh giới giữa an ninh nội bộ và an ninh bên ngoài là sự thổi phồng mối đe dọa: các cán bộ đảng ở các khu vực ít tội phạm, ít rủi ro giờ đây đưa ra lời cảnh báo về khủng bố, “các cuộc cách mạng màu” và “sự xâm nhập của Cơ Đốc giáo”. Ở Tân Cương, những mối lo ngại về chủ nghĩa ly khai đã được sử dụng để biện minh cho việc biến toàn bộ khu vực thành một nhà tù công nghệ cao lầm lạc. Và ở Hong Kong, ông Tập đã thiết lập một bộ máy “an ninh quốc gia” có thể phớt lờ luật pháp địa phương và hoạt động trong bí mật hoàn toàn nhằm loại bỏ các mối đe dọa đối với sự cai trị bàn tay sắt của Bắc Kinh. Ở cả hai nơi, ông Tập đã chứng tỏ ông sẵn sàng chấp nhận sự phản đối của quốc tế khi ông ta cảm thấy rằng lợi ích cốt lõi của đảng đang bị đe dọa.
Ở trong nước, ông Tập khơi dậy tình cảm dân tộc chủ nghĩa bằng cách cho rằng Trung Quốc đang bị kẻ thù bao vây và phong tỏa; ông khai thác cái nhìn đầy cảm tính và rất méo mó về quá khứ và lãng mạn hóa các trận chiến của Trung Quốc chống lại người Nhật trong Thế chiến thứ Hai và “chiến thắng” trước Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Bằng cách cảnh báo rằng Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ có nhiều rủi ro từ “các thế lực thù địch nước ngoài”, ông Tập đang cố tiêm vào đầu óc công dân Trung Quốc ý tưởng về những thời điểm khó khăn hơn phía trước và đảm bảo rằng đảng và bản thân ông được coi là lực lượng ổn định.
Ông Tập đã đưa Trung Quốc vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông đã đạt được.
Trong khi đó, để khai thác cơ hội được cho là xuất hiện trong thời gian Mỹ rút lui khỏi các vấn đề toàn cầu, Bắc Kinh đã tiến công mạnh mẽ trên nhiều mặt trận chính sách đối ngoại. Chúng bao gồm việc sử dụng chiến thuật “vùng xám”, chẳng hạn như sử dụng tàu đánh cá thương mại để áp đặt lợi ích lãnh thổ ở Biển Đông và thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của Trung Quốc ở Djibouti. Thị trường nội địa rộng lớn của Trung Quốc đã cho phép ông Tập đe dọa các quốc gia không thể hiện sự tuân phục chính trị và ngoại giao Trung Quốc, bằng chứng là chiến dịch cưỡng bức kinh tế gần đây của Bắc Kinh đối với Úc để đáp lại lời kêu gọi của Canberra về một cuộc điều tra độc lập nguồn gốc của virus gây ra đại dịch COVID- 19. Tương tự, ông Tập đã khuyến khích các nhà ngoại giao “Chiến binh Sói” của Trung Quốc đe dọa và quấy rối các nước chủ nhà nào chỉ trích hoặc chống đối Trung Quốc. Đầu năm nay, Bắc Kinh đã áp dụng biện pháp trừng phạt đối với Jo Smith Finley, một nhà nhân chủng học và nhà khoa học chính trị người Anh nghiên cứu về Tân Cương, và Viện Nghiên cứu Trung Quốc Mercator, một tổ chức tư vấn của Đức, những người và tổ chức mà ĐCSTQ tuyên bố công việc của họ đã “gây tổn hại nghiêm trọng [đến] chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc.”
Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đã chứng tỏ họ có sự kiên nhẫn chiến lược trong việc khẳng định lợi ích của Trung Quốc trên trường toàn cầu. Thật vậy, Mao đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon rằng Trung Quốc có thể đợi 100 năm để giành lại Đài Loan, và Đặng đã thương lượng việc trả lại Hồng Kông với cam kết (đã bị ông Tập phá vỡ) để cho vùng đất này tự trị trong 50 năm. Cả hai nhà lãnh đạo đó đều có ý thức sâu sắc về sự mong manh tương đối của Trung Quốc và tầm quan trọng của thái độ cẩn trọng, linh hoạt trong việc trị quốc. Ông Tập không chia sẻ sự trầm tĩnh của họ, hoặc niềm tin tưởng của họ vào các giải pháp lâu dài.
Điều đó đã làm dấy lên lo ngại rằng ông Tập sẽ cố gắng thực hiện một canh bạc cực kỳ mạo hiểm để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, nhân kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Tuy nhiên, có vẻ đáng ngờ rằng ông ta sẽ gây ra một cuộc đụng độ quân sự với Hoa Kỳ ở nơi chỉ cách bờ biển Trung Quốc 110 dặm. Giả sử PLA thành công trong việc vượt qua các tuyến phòng thủ của Đài Loan, chưa nói đến việc vượt qua sự can thiệp có thể có của Hoa Kỳ thì sau đó Tập phải thực hiện một cuộc chiếm đóng quân sự chống lại cuộc kháng chiến bền vững trong một khoảng thời gian không xác định. Một nỗ lực thâu tóm Đài Loan sẽ xói mòn gần như tất cả các tham vọng khác, cả trên toàn cầu và trong nước của ông Tập. Tuy nhiên, mặc dù các kịch bản cực đoan hơn có thể vẫn chưa xảy ra trong thời điểm hiện tại, ông Tập vẫn tiếp tục để Trung Quốc phô trương sức mạnh trong khu vực các nước láng giềng và đẩy mạnh ra thế giới bên ngoài để theo đuổi lợi ích của mình. Về nhiều vấn đề, có vẻ như ông ta muốn có một giải pháp cuối cùng ngay trong thời kỳ cầm quyền của mình.
MỘT CON NGƯỜI CỦA HỆ THỐNG
Tập có khuynh hướng tin rằng ông ta có thể định hình con đường đi chính xác của quỹ đạo của Trung Quốc; điều đó gợi nhớ tới sự miêu tả của nhà kinh tế học Adam Smith về “con người của hệ thống”: một nhà lãnh đạo “say mê vẻ đẹp giả tưởng trong kế hoạch lý tưởng của chính ông ta về chính phủ, đến mức ông không thể chịu được độ sai lệch nhỏ nhất trong bất kỳ phần nào của nó.” Để thực hiện các mục tiêu ngắn hạn của mình, ông Tập đã từ bỏ bàn tay vô hình của thị trường và xây dựng một hệ thống kinh tế dựa vào các chủ thể nhà nước để đạt được các mục tiêu đã định trước.
Điều quan trọng của thay đổi này là sự phụ thuộc của ông Tập vào chính sách công nghiệp, một công cụ của chính sách kinh tế đã không còn được ưa chuộng cho đến gần cuối nhiệm kỳ của ông Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm của ông Tập, khi ông bắt đầu định hình cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với đổi mới công nghệ. Năm 2015 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, với sự ra đời của các chương trình chính sách công nghiệp thay thế không chỉ nhằm mục đích thúc đẩy một công nghệ hoặc một ngành công nghiệp nhất định mà còn tái tạo lại toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế Trung Quốc. Chúng bao gồm kế hoạch Made in China 2025, nhằm nâng cấp năng lực sản xuất của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan trọng; chiến lược Internet Plus, một kế hoạch tích hợp công nghệ thông tin vào các ngành công nghiệp truyền thống; và Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, vạch ra một chương trình nghị sự đầy tham vọng nhằm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào công nghệ nước ngoài. Thông qua các chính sách như vậy, Bắc Kinh rót hàng chục nghìn tỷ nhân dân tệ vào các công ty, công nghệ và lĩnh vực mà họ coi là quan trọng về mặt chiến lược. Họ thực hiện điều này thông qua trợ cấp trực tiếp, giảm thuế và “quỹ hướng dẫn của chính phủ” gần như thị trường, giống như các công ty đầu tư mạo hiểm do nhà nước kiểm soát.
Cho đến nay, thành tích của Bắc Kinh trong lĩnh vực này hoàn toàn bị pha trộn: trong nhiều trường hợp, những khoản đầu tư khổng lồ đã tạo ra lợi nhuận ít ỏi. Nhưng như nhà kinh tế học Barry Naughton đã cảnh báo, “Các chính sách công nghiệp của Trung Quốc quá lớn và quá mới, nên chúng tôi chưa có đủ cơ sở để đánh giá chúng. Họ có thể thành công, nhưng cũng có thể thành thảm họa”.
Ông Tập tin rằng ông có thể nhào nặn tương lai của Trung Quốc cũng như các hoàng đế trong quá khứ lâu đời của đất nước.
Liên quan đến chính sách công nghiệp này là cách tiếp cận của ông Tập đối với các công ty thuộc khu vực tư nhân của Trung Quốc, bao gồm nhiều gã khổng lồ về công nghệ và tài chính mà chỉ vài năm trước các nhà quan sát còn coi là tác nhân có thể gây ra thay đổi chính trị và xã hội. Canh tân công nghệ giúp các công ty như Ant Group và Tencent kiểm soát được các luồng dữ liệu mới và công nghệ tài chính quan trọng. Ông Tập rõ ràng nhận thấy đây là một mối đe dọa không thể chấp nhận được, thể hiện qua việc ĐCSTQ gần đây bất ngờ ngăn chặn đợt chào bán cổ phiếu công khai lần đầu của Ant Group sau những bình luận Jack Ma, người sáng lập của Ant Group, mà nhiều người coi là những lời chỉ trích đảng cộng sản.
Tập sẵn sàng từ bỏ việc thúc đẩy uy tín tài chính quốc tế của Trung Quốc để bảo vệ lợi ích của đảng và gửi một tín hiệu đến giới tinh hoa kinh doanh: đảng là trên hết. Tuy nhiên, đây không phải là câu chuyện đối đầu của David và Goliath. Nó giống như mối tranh chấp gia đình, do mối liên hệ chặt chẽ và lâu dài giữa các công ty trên danh nghĩa là tư nhân của Trung Quốc với hệ thống chính trị của nó. Thật vậy, gần như tất cả các doanh nhân thành công nhất của Trung Quốc đều là đảng viên của ĐCSTQ và đối với nhiều công ty, thành công phụ thuộc vào sự ưu đãi của đảng, bao gồm cả sự bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Nhưng trong khi các nhà lãnh đạo trước đây của Trung Quốc đã dành phạm vi rộng cho khu vực kinh tế tư nhân, ông Tập đã mạnh mẽ vạch ra một đường ranh giới. Làm như vậy là hạn chế hơn nữa khả năng đổi mới của quốc gia. Cho dù các cơ quan quản lý và nhà đầu tư nhà nước của Bắc Kinh có tinh vi đến đâu, thì sự canh tân bền vững và tăng năng suất không thể xảy ra nếu không có một khu vực tư nhân sôi động.
CHIẾN LƯỢC LỚN HAY BI KỊCH LỚN?
Để nắm được những lợi thế tạm thời và ngăn chặn những thách thức trong nước, ông Tập đã định vị mình cho một cuộc chạy đua kéo dài 15 năm, một cuộc đua mà ông đã huy động những năng lực đáng sợ của một hệ thống hiện do ông toàn quyền chỉ huy, không bị ai thách thức. Khung thời gian bị cắt ngắn của ông Tập khiến ông có cảm giác cấp bách phải xác định chương trình chính sách của Bắc Kinh, khả năng chấp nhận rủi ro và sẵn sàng thỏa hiệp khi tiến về phía trước. Điều này sẽ thu hẹp sự lựa chọn của các quốc gia hy vọng định hình hành vi của Trung Quốc hoặc hy vọng thái độ của “Chiến binh Sói” sẽ tự tàn lụi.
Hoa Kỳ có thể bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh rằng nền dân chủ Mỹ đang suy yếu và ngôi sao của Washington đang mờ dần bằng cách củng cố khả năng phục hồi của xã hội Mỹ và cải thiện năng lực của chính phủ. Nếu Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh đầu tư vào canh tân và nguồn nhân lực, họ có thể ngăn cản nỗ lực của Tập trong cuộc đua giành lợi thế đi đầu trong các công nghệ quan trọng và mới nổi. Tương tự như vậy, một vai trò tích cực hơn và hướng tới tương lai của Hoa Kỳ trong việc định hình trật tự toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của Bắc Kinh trong việc truyền bá những ý tưởng phi tự do ra ngoài biên giới của Trung Quốc.
Ông Tập có thể đúng khi cho rằng thập niên tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Quốc. Điều mà ông ta có thể không hiểu là chính bản thân ông ta mới là trở ngại lớn nhất
Một cách vô tình, ông Tập đã đặt Trung Quốc vào cuộc cạnh tranh với chính nó, trong một cuộc chạy đua để xác định xem liệu nhiều điểm mạnh của nước này có thể vượt qua những bệnh lý mà chính ông Tập đã đưa vào hệ thống hay không. Vào thời điểm ông nắm quyền, ĐCSTQ đã thiết lập một quy trình khá dễ đoán trước cho tiến trình chuyển giao quyền lực hợp quy tắc và hòa bình. Vào mùa thu tới, Đại hội Đảng lần thứ 20 sẽ được tổ chức, và thông thường, một nhà lãnh đạo nắm quyền lâu như ông Tập sẽ bước sang một bên. Tuy nhiên, cho đến nay, không có kỳ vọng rằng Tập sẽ làm như vậy. Đây là một động thái cực kỳ mạo hiểm, không chỉ đối với bản thân ĐCSTQ mà còn đối với tương lai của Trung Quốc. Không có người kế vị trong tầm mắt, nếu ông Tập đột ngột qua đời trong thập niên tới, đất nước có thể rơi vào hỗn loạn.
Cho dù giả định ông Tập vẫn khỏe mạnh trong lúc nắm quyền, thì nhiệm kỳ của ông ấy càng kéo dài, ĐCSTQ sẽ càng giống với một giáo phái sùng bái cá nhân, như dưới thời Mao. Các yếu tố của chuyện này đã quá rõ ràng, thói nịnh hót rõ ràng đã trở thành chuẩn mực trong các tầng lớp chính trị Trung Quốc hiện nay. Những bài tụng ca sự vĩ đại của “Tư tưởng Tập Cận Bình” có thể khiến người ngoài tò mò hoặc hài hước, nhưng chúng thực sự có ảnh hưởng độc hại đến chất lượng ra quyết định và luồng thông tin trong đảng.
Thật là mỉa mai và bi thảm, nếu như Tập, một nhà lãnh đạo mang sứ mệnh cứu đảng và đất nước, thay vì vậy lại gây nguy hiểm cho cả hai. Đường lối hiện tại của ông ta có nguy cơ làm mất tác dụng của những tiến bộ lớn mà Trung Quốc đã đạt được trong bốn thập niên qua. Cuối cùng, ông Tập có thể đúng rằng thập niên tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Quốc. Điều mà ông ta có thể không hiểu là chính bản thân ông ta có thể là trở ngại lớn nhất.
(*) JUDE BLANCHETTE là Chủ tịch Freeman về Nghiên cứu Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Nguồn: Xi Jinping’s Race to Consolidate Power in China (foreignaffairs.com)