Mùa thu năm 2024, lịch sử như “cô đặc lại” thành nỗi uất hận bị kìm nén từ năm 2014 bỗng lại “bùng nổ” và tái diễn trên Biển Đông. Vụ việc tàu Trung Quốc tấn công dã man ngư dân Việt Nam ở vùng biển Hoàng Sa vào cuối Tháng Chín đã khơi dậy những ký ức đau buồn về những ngày Tháng Năm năm 2014, khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Căng thẳng leo thang, và bóng ma của quá khứ đang phủ bóng lên hiện tại, đặt ra câu hỏi: Liệu Biển Đông có đang bước vào một giai đoạn bất ổn mới?
Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng các hành động quyết liệt nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền phi lý của mình trên Biển Đông. Bắc Kinh không chỉ đơn thuần tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích Biển Đông, mà còn tích cực triển khai các hoạt động nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền này.
Lịch sử quay lại sau 10 năm
Từ ngày thay đổi lãnh đạo trên thượng tầng Ba Đình, người dân Việt Nam vốn ngại đụng chạm đến chính trị vì lo ngại đàn áp bỗng có đôi chút trông chờ một sự thay đổi từ chuyến đi Mỹ và các chuyến công du quốc tế của ông Tô Lâm.
Các cuộc gặp gỡ và phát biểu “thừa nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ” của ông Tô Lâm, đặc biệt là những là cái bắt tay của ông với Tổng Thống Zelensky đánh dấu một dấu hiệu nhỏ nhoi về thay đổi lập trường trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, tạo ra một số kỳ vọng về lập trường cứng rắn hơn của Việt Nam trước các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo của Trung Quốc.
Việc Thủ Tướng Trung Quốc Lý Cường tức tốc đến Hà Nội sau chuyến công du “gây xôn xao dư luận” của ông Tô Lâm, đã khiến người dân kỳ vọng vào việc chính quyền Việt Nam sẽ bày tỏ thái độ thẳng thắn và nghiêm khắc trước những vụ việc Trung Quốc đối xử tàn bạo với ngư dân Việt Nam trong những tháng gần đây.
Nhưng rồi mọi mong mỏi lại trở về với thất vọng khi phía Việt Nam hoàn toàn “lờ đi” cơ hội tiếp tục lên tiếng và gây sức ép với Trung Quốc và hành vi gây phẫn nộ cho nhân dân Việt Nam.
Nhớ 10 năm trước, ký ức về những ngày Tháng Năm năm 2014 vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam, như một vết sẹo không thể nào phai mờ. Vụ việc giàn khoan Hải Dương 981, một minh chứng rõ ràng cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, khơi dậy trong lòng người dân Việt Nam một ngọn lửa yêu nước sục sôi, làn sóng biểu tình phản đối Trung Quốc lan rộng trên cả nước. Ngay tại Hà Nội những ngày Tháng Năm năm ấy cũng sục sôi không khí hừng hực khắp nơi. Từ sáng đến trưa, các đoàn biểu tình chia thành từng đợt, nối đuôi nhau diễu hành qua nhiều con phố lớn, từ Đại Sứ Quán Trung Quốc tại Vườn hoa Chí Linh lên tận Nhà Hát Lớn của Hà Nội.
Họ hô vang những khẩu hiệu “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!,” “Trung Quốc cút khỏi Biển Đảo của Việt Nam!,” “Vì Biển Đông quên mình, vì Biển Đông hy sinh!,” tiếng hô vang vọng khắp không gian, hòa vào nhau tạo nên một bản hùng ca bất khuất.
Ở phương Nam, tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM, cuộc mít tinh khổng lồ với sự tham gia của đông đảo cán bộ, sinh viên đã khơi dậy và giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, trách nhiệm và bổn phận của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; đồng thời thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc; phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải Dương – 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
“Chia sẻ Tương lai” nào với Trung Quốc?
Bắc Kinh có những hành động ngang ngược, vi phạm luật pháp quốc tế trên ngư trường truyền thống của Việt Nam, dựa trên những tuyên bố chủ quyền phi lý và các hành vi áp đặt.
Trung Quốc đơn phương tuyên bố quyền thống trị trên thực tế đối với hầu hết diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế rộng 370 km của bảy quốc gia ASEAN ven biển, trong đó có Việt Nam.
Theo tờ Asia Sentinel, việc Trung Quốc đầu tư nâng cấp căn cứ hải quân Ream ở Campuchia, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự chiến lược, gây ra nhiều lo ngại về việc Trung Quốc có thể sử dụng căn cứ này để triển khai lực lượng quân sự, kiểm soát vùng biển chiến lược, đe dọa an ninh khu vực. Trung Quốc khiến các lực lượng Mỹ khó đi lại tự do hơn và thách thức cấu trúc an ninh hiện tại do Hoa Kỳ lãnh đạo ở khu vực Indo-Pacific.
Bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven biển, Trung Quốc ban hành luật tuần tra hàng hải mới vào năm 2021, cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc tự ý định ra luật lệ, quy tắc và quy định quản lý hành vi trong 3.5 triệu km vuông biển – nơi có lượng hàng hóa thương mại ước tính 3 – 5 nghìn tỷ đôla mỗi năm đi qua.
Luật tuần tra hàng hải của Trung Quốc cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển nước này có quyền bắt giữ tàu thuyền ngoại quốc và giam giữ các tàu và cá nhân này lên đến 60 ngày nếu nghi ngờ họ xâm nhập trái phép vào vùng biển mà Trung Quốc tự nhận là “lãnh thổ không thể tranh cãi” dựa trên đường chín đoạn phi pháp – yêu sách đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ hoàn toàn vào năm 2016.
Vụ tấn công ngư dân Việt Nam gần đây là một minh chứng rõ ràng cho việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để thực thi những luật lệ ngang ngược này, coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông.
Kể từ khi cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974, Trung Quốc nhanh chóng triển khai chiến lược “tằm ăn dâu” trên quần đảo này, từng bước biến nó thành một căn cứ quân sự kiên cố, bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam.
Bắc Kinh thiết lập sự hiện diện thường trực trên Hoàng Sa, xây dựng các tiền đồn, cơ sở hạ tầng quân sự, hệ thống radar, đường băng, và các tổ hợp tên lửa, biến quần đảo này thành một “hàng không mẫu hạm” bất khả xâm phạm trên Biển Đông.
Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn ngang nhiên sáp nhập Hoàng Sa vào hệ thống hành chính của tỉnh Hải Nam và chính thức coi Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của mình, đồng thời khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng biển xung quanh, bao gồm ngư trường và các mỏ dầu khí.
Trung Quốc liên tục sử dụng các biện pháp ngoại giao và quân sự để khẳng định quyền kiểm soát Hoàng Sa, bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, phủ nhận các yêu sách biển của các nước láng giềng.
Trong bối cảnh đó, liệu Việt Nam có thể đặt niềm tin vào “Cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc?
Khái niệm này được Bắc Kinh đưa ra như một tầm nhìn về sự hợp tác và thịnh vượng chung cho khu vực, nhưng thực tế lại đang đối nghịch với những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông.
Trong khi Trung Quốc ra rả tuyên truyền về hợp tác và phát triển, thì họ lại liên tục có những hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia láng giềng. Điều này khiến cho “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trở thành một khẩu hiệu sáo rỗng, thiếu tính thuyết phục và không tạo được lòng tin từ các quốc gia trong khu vực.
Thời gian gần đây, các động thái gây sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam xem ra có vẻ thô bạo và “phản ngoại giao” hơn thời Tổng Trọng.
Trước chuyến công du New York của ông Tô Lâm, trang Facebook của Tổng Lãnh Sự quán Trung Quốc tại Đà Nẵng đăng lại video vu cáo đại học Fulbright Việt Nam, kèm theo thông điệp cảnh báo về “cách mạng màu.”
Sau đó, Trung Quốc lần đầu tiên cho một thiết bị bay không người lái UAV bay dọc theo lãnh hải Việt Nam mà không gặp bất kỳ sự phản đối nào từ phía Việt Nam. Hành động này được xem là một động thái mang nhiều hàm ý, vừa phô trương sức mạnh, vừa thể hiện rõ ý đồ răn đe của Bắc Kinh, muốn khẳng định Biển Đông vẫn nằm trong tầm kiểm soát của họ và Hà Nội vẫn nằm trong tầm ngắm của Bắc Kinh. Đồng thời cảnh báo liên minh Mỹ – Philippines – những quốc gia đang có xung đột mạnh mẽ với Trung Quốc trên Biển Đông – rằng Trung Quốc vẫn còn nhiều quân bài chiến lược khác.
Ngay sau sau cuộc gặp giữa ông Tô Lâm và Tổng Thống Joe Biden hồi Tháng Chín, Trung Quốc phóng tên lửa hạt nhân như là một lời cảnh cáo gửi đến cả Việt Nam và Mỹ, nhằm thể hiện sức mạnh quân sự và quyết tâm bảo vệ yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.
Nhân dịp Bộ Trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự kỳ họp lần thứ 13 Ủy Ban Hợp Tác Kinh Tế Thương Mại Việt Nam – Trung Quốc ở Bắc Kinh, ngày 30 Tháng Chín, Bộ Trưởng Công Nghiệp và Công Nghệ Trung Quốc kêu gọi Việt Nam hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo máy bay.
Trước “mong muốn” này, Hà Nội sẽ phải đối mặt với áp lực không nhỏ từ các quốc gia phương Tây, đặc biệt là từ Hoa Kỳ. Bất kỳ sự hợp tác quá gần gũi nào với Bắc Kinh trong các lĩnh vực công nghệ cao, chẳng hạn như vũ trụ và hàng không, có thể gây ra những hệ quả đối với quan hệ Việt – Mỹ.
Trước những thách thức to lớn này, Việt Nam đang đối mặt với bài toán khó trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia khi phải duy trì một chiến lược “ngoại giao cân bằng bền,” tiếp tục thu hút đầu tư và hỗ trợ từ phương Tây, đồng thời không để mối quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng quá mức.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông được cho là chưa đủ hiệu quả để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Việc duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc trong khi vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền là một thách thức lớn. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về kinh tế và thương mại, khiến cho việc phản ứng mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc trở nên khó khăn.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông còn thiếu sự linh hoạt và chủ động. Việc quá tập trung vào việc duy trì quan hệ song phương với Trung Quốc, trong khi chưa khai thác hết tiềm năng hợp tác đa phương với các nước lớn khác như Mỹ, Philippines và các nước Đông Á có chung tranh chấp vùng biển với Trung Quốc…, đã vô hình trung tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép lên Việt Nam.
Chính sách “bốn không” trong quốc phòng (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) được một số nhà phân tích cho là đang hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn, tạo ra thế cân bằng lực lượng trên Biển Đông.
Việc chưa tận dụng tối đa các diễn đàn quốc tế và khu vực để lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, cũng được xem là một điểm yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Biển Đông đang trở thành điểm nóng địa chính trị, nơi các cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích. Việt Nam cần phải có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, tăng cường năng lực quốc phòng, và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của mình.
Bóng ma của quá khứ đang hiện hữu trên Biển Đông, và tương lai của vùng biển này vẫn còn là một ẩn số.