Nhìn ngắm những bức tranh để đời, các nhà phân tích nghệ thuật tỉ mỉ so sánh tác phẩm đầu tay với những tác phẩm khác, một quá trình sáng tác suốt cuộc đời họa sĩ để tìm hiểu tâm tư, nếp sống của tác giả.
Như mọi người, nghệ sĩ cũng trải qua những vui buồn, sinh lão bệnh tử và một số cũng bị bệnh tật hành hạ. Khi kỹ thuật, nghệ thuật và y học gặp nhau, ta có những bài phân tích và giải thích việc bệnh tật đã ảnh hưởng ra sao đến những danh họa, từ bố cục, nét cọ, vệt dao cho đến cái nhìn.
Sử dụng các kỹ thuật “digital” hiện đại, Bác Sĩ Nhãn Khoa Michael F. Marmor tại Đại Học Stanford, California, đã tường trình kết quả cuộc tìm hiểu của ông và những người cộng sự trên tạp chí The Archive of Ophthalmology. Với những tấm ảnh chụp từ các danh họa, aacomputer simulation, Bác Sĩ Marmor từ từ mở hé cánh cửa thế giới màu sắc của nhiều họa sĩ tài danh bao gồm cả cụ Monet, những hình ảnh mờ dần với rất nhiều màu vàng, những đốm màu vàng-xanh không rõ nét khi chứng đục thủy tinh thể (cataract) che phủ cái nhìn của nhà họa sĩ lẫy lừng, như một tấm hình chụp khi run tay và hình thể là những nét mờ nhạt.
Tại Museum of Modern Art, các nhà phân tích đã đặt những bức tranh Monet bên nhau, mỗi bức tranh được vẽ trong một thời điểm, và ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa các thời điểm này. Thời gian và bệnh tật đã thay đổi những bức tranh cuối đời của cụ Monet; từ những đóa hoa súng khiến họa sĩ nổi danh đến chiếc cầu Nhật Bản mờ nhạt, hoa súng trong bức tranh này chỉ còn là những đốm màu đỏ và nâu, đậm hơn màu sắc thực sự của những đóa hoa trong hồ Giverny.
Claude Monet là một họa sĩ thành công nhất trong thời đại ấy, tài danh kia đã chiếm một chỗ đứng khá cao trong nghệ thuật hội họa của thế giới. Cùng với tuổi già, thập niên 1912 -1922 là một một thời điểm xuống dốc, những bức tranh của cụ mất dần cá tính đặc biệt, những nét rất Monet.
Nét vẽ trở nên sắc sảo hơn, màu sắc rực rỡ hơn với màu xanh, cam và nâu; những màu sắc không được cụ Monet sử dụng trong thủa son trẻ. Những hình ảnh mất hết chi tiết và xếp chồng lên nhau, không còn một cá tính rõ rệt. Là một tên tuổi tiên phong của trường phái Ấn Tượng, cụ Monet được xem như người đã phá vỡ những biên giới của hội hoạ; khi nhìn ngắm những bức tranh trong thời điểm mù mờ kia, người ta đã băn khoăn tự hỏi phải chăng lúc cuối đời cụ Monet đã trở thành một họa sĩ trừu tượng?
Đặt câu hỏi và phân vân như thế cho đến khi được thân nhân kể lại những mẩu chuyện về ông họa sĩ tài danh, ta mới có những giây phút “à há”! Thì ra cụ Monet bị đục thủy tinh thể, cataract, nhìn vật thể không còn rõ ràng nên cụ vẽ bằng trí nhớ, và cụ nhìn nhận rằng không nhận ra màu sắc nữa nên cụ trông mong vào nhãn hiệu trên ống màu và vẽ theo thói quen!
Dĩ nhiên là ngày nay ta không thể đoán được ý muốn của tiền nhân, cụ Monet thực sự muốn vẽ bức tranh như thế nào, màu sắc hình thể ra sao, nhưng với kỹ thuật về hình ảnh ngày nay, ta có thể phân tích và nhận ra phần nào những giới hạn của nhà nghệ sĩ khi bệnh tật lấy đi thị giác hay cái nhìn của họ về thế giới chung quanh. Điều ta có thể chắc chắn là cụ Monet không thể xét đoán mình đã vẽ những gì!
Họa Sĩ Mary Cassat cũng bị đục thủy tinh thể như cụ Monet. Thủa ấy các cuộc giải phẫu thay thủy tinh thể không mấy thành công. Cuộc giải phẫu đầu tiên làm hỏng con mắt bên phải; con mắt còn lại chỉ thấy mù mờ, bà Cassat đành ngừng vẽ năm 1919. Thật đáng tiếc, nếu đôi mắt của họa sĩ được chữa lành, hẳn thế giới còn được thừa hưởng nhiều di sản nghệ thuật của bà ấy?
Biết thị giác giảm sút nhưng cuộc giải phẫu không thành công của bà Cassat khiến ông họa sĩ hãi hùng và dùng dằng; mãi đến năm 1923 cụ mới trải qua một cuộc giải phẫu và lấy lại thị giác. Những bức tranh cuối cùng đã trở lại với sắc thái Monet lúc ban đầu. Thân nhân kể lại rằng cụ Monet phá hủy khá nhiều các bức họa vẽ trong thời bị chứng cataract. Thật tiếc của trời!
Claude Monet không phải là họa sĩ duy nhất bị ảnh hưởng bởi bệnh tật. Trong thế kỷ thứ 19-20, đất Pháp có nhiều danh tài bệnh tật khác, họ tranh đấu âm thầm để chiến thắng bệnh tật suốt mấy chục năm. Với những nghệ sĩ bị hỏng mắt, điều lạ lùng là sự giới hạn của thị giác không tạo ra sự thay đổi lớn về cá tính trong cách vẽ (style) dù cái nhìn về vật thể và màu sắc bị ảnh hưởng khá nhiều.
Edgar Degas, lẫy lừng với danh họa lõa thể và những vũ nữ ballet, bị chẩn đoán hỏng võng mạc (retina) (?) suốt nửa cuộc đời. Ngày nay, qua các triệu chứng do thân nhân kể lại ta đoán là cụ bị chứng “macular degeneration” (thoái hóa hoàng tâm?). Ông cụ nhận ra mình bị hỏng mắt trong những năm 1870-71 khi còn trong quân đội, ông không thể nhắm bắn khi dùng mắt phải vì một khoảng mù trong tâm điểm của mắt (central blindness). Đến năm 1890 thì mắt trái bắt đầu hư. Cụ Degas dùng phần thị giác còn lại, peripheral vision, để bù đắp cho phần thị giác khiếm khuyết.
Khác với chứng đục thủy tinh thể, hỏng võng mạc không ảnh hưởng đến đến sự thu nhận màu sắc nhưng gây mờ mắt, ảnh hưởng đến hình thể và đường nét. Bác Sĩ Marmor dùng kỹ thuật “computer simulation” để quan sát tỉ mỉ đường nét của những bức tranh; khi thị giảm suy giảm trầm trọng, những hình thể trở nên méo mó khác thường. Và người ta suy đoán rằng cụ Degas chuyển qua nặn tượng vì xúc giác và hai tay còn kiểm soát được hình thể và đường nét của tác phẩm.
Một họa sĩ khác, Camille Pissarro bị hỏng ống dẫn nước mắt, tear duct. Trong suốt 15 năm cuối đời, cụ Pissarro bị nhiễm trùng kinh niên ở tuyến nước mắt bên phải, mắt lúc nào cũng mọng nước, và cụ khó nhìn lâu cũng như nhìn rõ ngoài trời, nhất là vào mùa đông. Những bức tranh được xem như danh họa, cảnh thành phố Rouen và Paris, được vẽ từ trong nhà, sau một cửa kính để bảo vệ đôi mắt.
Suốt cuộc đời, ông cụ Pierre August Renoir đã vẽ khoảng 4,000 bức tranh, ngay cả trong giai đoạn bị viêm khớp xương rất nặng; những bức tranh để đời vẫn rõ nét. Họa sĩ Renoir bị viêm khớp xương (arthritis) bắt đầu từ năm 1888, dần dần những ngón tay cụ đông cứng, việc sử dụng cọ mỗi ngày một khó khăn; cho đến khi các khớp xương hoàn toàn sưng đỏ, cứng nhắc và đau đớn vào năm 1903, ông đành chọn một lối vẽ bớt chi tiết và dùng những nét vẽ thoáng, broad stroke, và cụ vẽ cho đến lúc chết, với người giúp việc đặt cọ vào giữa các ngón tay co quắp biến dạng của cụ. Các bức họa này được lưu trữ trong gia đình, giữa các thân nhân.
Chứng kinh phong và những chứng bệnh khác đã hành hạ và sau cùng hủy hoại thiên tài hội họa của nhân loại, Vincent Van Gogh.

Theo Tiến Sĩ Sinh Hóa Wilfred N. Arnold, Đại Học Kansas, cụ Van Gogh bị chứng “acute intermittent porrhyria,” một chứng bệnh ảnh hưởng đến sự chuyển hóa tại gan, gây ra những cơn mất trí, trầm cảm, gặp ảo giác và đau bụng. Cơn bệnh lúc phát lúc ngừng. Giữa những lúc bình thường, thiên tài vẽ say sưa phát huy hết tài năng; khi cơn bệnh bộc phát, cụ Van Gogh bị hành hạ bởi ảo giác, nhức đầu, động kinh… và cuối cùng tự kết liễu cuộc đời mình năm 37 tuổi.
Bác Sĩ Marmor cho rằng màu vàng trong những danh họa của Van Gogh đến từ lòng yêu thích màu sắc huy hoàng của ánh nắng, của hoa hướng dương, phản bác những truyền thuyết cho rằng cụ Van Gogh bị “yellow vision”, một chứng bệnh do việc sử dụng digitalis đên mức trúng độc. Thủa ấy digitalis được dùng để chữa kinh phong, và người ta phải sử dụng một lượng thuốc rất cao mới dẫn đến việc trúng độc và bị “yellow vision” (nhìn chỉ thấy một màu vàng).
Với sự hiểu biết của y học và sự phát triển về kỹ thuật của những năm 2000, các bức họa nổi tiếng trở nên nhân chứng của sự đau khổ do bệnh tật hành hạ người nghệ sĩ. Hiểu được tâm tư và ‘cảm’ được tranh là ta có thể hé nhìn cửa sổ tâm hồn và yêu mến tác giả qua những say mê, thống khổ và sự thăng hoa của họ?




























