Dù ra đời sau bộ phim kinh điển cùng tên tới 40 năm nhưng Casablanca của danh ca Bertie Higgins vẫn thường bị nhầm là nhạc của phim này bởi cảm xúc trong bài hát quá giống với chuyện tình giữa hai nhân vật Rick và Ilsa trong phim. Bertie Higgins đã viết nên những giai điệu trữ tình, da diết này lấy cảm hứng từ những hình ảnh trong bộ phim Casablanca.
Chuyện tình gắn kết kỳ lạ giữa màn bạc và đời thực
Casablanca là một bộ phim kinh điển của điện ảnh thế giới, hãng Warner Brothers sản xuất năm 1942, do Michael Curtiz đạo diễn với hai vai chính do Humphrey Bogart và Ingrid Bergman đóng. Bộ phim được đề cử tám giải Oscar và được trao ba giải chính là: Đạo diễn xuất sắc nhất, kịch bản phim hay nhất và phim hay nhất. Năm 1998, Viện Điện ảnh Hoa Kỳ (American Film Institute) bình chọn Casablanca là bộ phim đứng thứ hai trong 100 phim hay nhất mọi thời đại, sau Citizen Kane (1941).
Năm 2005, Casablanca lại trở thành bộ phim dẫn đầu top 100 xét về lời thoại trong phim hay nhất mọi thời đại của Viện Điện ảnh Hoa Kỳ. Cũng trong năm 2005 tạp chí TIME bình chọn Casablanca là một trong 100 phim hay nhất mọi thời đại. Năm 2006, kịch bản của bộ phim Casablanca được Hội Tác giả Mỹ (WGA) bình chọn là kịch bản hay nhất trong danh sách 101 kịch bản hay.
Nhưng phim Casablanca của Michael Curtiz có mối liên quan gì đến ca khúc Casablanca của ca nhạc sĩ nhạc đồng quê Bertie Higgins? Có. Mà không! Nếu chưa từng xem qua phim Casablanca, nhiều người sẽ cho rằng bài Casablanca là nhạc trong của phim cùng tên. Thực tế, bài hát ra đời sau bộ phim đến gần 40 năm và đúng là nó được lấy cảm hứng từ bộ phim này. Với ca từ bay bổng, mà trong đó vay mượn lại khá nhiều từ ca khúc chủ đề của phim mang tên As Time Goes By.
Dấu ấn tình yêu
Bài Casablanca được ghi âm vào năm 1984 và cũng là nhạc phẩm ghi dấu ấn tình yêu của biết bao cặp tình nhân với phần lời ca đầy ý nghĩa, lãng mạn. Với giai điệu soft rock nhẹ nhàng, êm dịu làm say đắm lòng người, Casablanca là nhạc phẩm được bao thế hệ tình nhân yêu thích, với những câu chữ lãng mạn như “a kiss is still a kiss”, “as time goes by”…
Oh a kiss is still a kiss in Casablanca
But a kiss is not a kiss without your sigh
Please come back to me in Casablanca
I love you more and more each day as time goes by
Đôi tình nhân trẻ, “dư thừa” lãng mạn, dưới ánh sáng chập choạng của một nơi chiếu phim ngoài trời, với túi bắp rang và lon coca, trong mắt họ đã trở thành rượu champagne và trứng cá caviar. Và mặc dù chỉ ngồi xem trong chiếc xe Chevrolet cũ kỹ nhưng họ cũng cảm giác như đang ở quán café Rick’s thắp nến lung linh!
I fell in love with you watching Casablanca
Back row of the drive-in show in the flickering light
Popcorn and cokes beneath the stars
Became champagne and caviar
Making love on a long hot summer’s night
Chàng trai chưa bao giờ tới Casablanca nhưng vẫn thấy được ánh trăng Marốc lấp lánh trong ánh mắt cô gái! Chuyện tình của họ, chắc chắn là chẳng bao giờ được chiếu trên màn ảnh nhưng khi cô gái ra đi, chàng trai vẫn khắc khoải y hệt nhân vật Rick, “thời gian qua đi, tôi lại yêu em nhiều hơn”…
I thought you fell in love with me watching Casablanca
Holding hands ‘neath the paddle fans
In Rick’s candle lit cafe
Hiding in the shadows from the spies
Moroccan moonlight in your eyes
Making magic at the movies in my old Chevrolet
Bertie Higgins
Elbert Joseph “Bertie” Higgins (sinh năm 1944 ở Florida) là một ca-nhạc sĩ đồng quê, là người Bồ Đào Nha, gốc Ireland và Đức. Ông bắt đầu sự nghiệp trong làng giải trí ở tuổi 12 và từng giành một số giải thưởng trong các cuộc thi tài năng địa phương. Sau khi tốt nghiệp trung học, Higgins học tiếp về về báo chí và nghệ thuật. Và cuối cùng, ông trở thành một tay trống của ban nhạc Tommy Roe và The Roemans, và chơi cùng thời với các nhóm The Rolling Stones và The Beach Boys.
Sau đó, Higgins bắt đầu sáng tác, được các hãng thu âm như Bob Crewe, Phil Gernhard, và Felton Jarvis quan tâm và hỗ trợ. Trong sự nghiệp mình, Higgins lưu diễn nhiều nơi thế giới. Ông có tên trong Rock and Roll Hall of Fame ở Cleveland và trong Georgia Music Hall of Fame. Những năm gần đây, Higgins chuyển sang sản xuất phim. Ông cũng là nhà tài trợ cho một số tổ chức từ thiện quốc gia như Hospice, Hiệp hội Ung thư Mỹ, và The Boys and Girls Clubs of America.
Casablanca được biết đến với phiên bản tiếng Việt Sao Không Đến Bên Em của tác giả Kim Tuấn mà những ca sĩ như Ngọc Lan, Ý Lan, Kiều Nga… đều từng trình diễn. Casablanca du nhập vào Việt Nam khoảng năm 1990, cùng thời với Lambada, Nothing Gonna Change My Love For You, Right Here Waiting… Đa phần dân nghe nhạc thời đó tìm được bài nhạc này là từ băng cassette nhập từ Thái Lan, bán rộng rãi ở “chợ băng đĩa” Huỳnh Thúc Kháng hay vài kiot thiết bị máy ảnh trên đường Lê Thánh Tôn và Lê Lợi, Sài Gòn.
_________
Sao Không Đến Bên Em (lời Việt: Kim Tuấn)
Lòng biết đã đắm đuối yêu anh khi xem Casablanca
Giữa bóng tối, đêm em mơ ta say sưa bên môi mềm ngọt thơm
Nồng nàn dịu dàng vòng tay yêu đương
Ôi thiên đường trong trái tim ta
Đưa ta đi, đi xa mãi tới con đường hoa
Lòng ngỡ anh cũng đắm đuối yêu em khi xem Casablanca
Cũng thắm thiết, tay trong tay say sưa như cuộc tình là thơ
Đời thì thường đẹp như ta hay mơ
Đời đưa ta vào giây phút đam mê
Rồi đời buông ta rơi chơi vơi, lây lất trên con đường xa
Ôi những môi hôn ngọt ngào trong Casablanca
Giờ là những môi hôn âu sầu vì người đã xa
Hỡi anh yêu mau quay về bên Casablanca
Lòng vẫn mãi mãi yêu anh dù thời gian có lướt qua
Đời sống cũng có những trái tim đau như tim em đang tan nát
Cũng có lúc nước mắt đã rơi mau như mi em âu sầu
Cuộc đời này và chuyện phim kia là như nhau
Bàn tay em gầy theo tháng năm đau
Mà người đi, đi xa xôi mang theo ước mơ ta cùng trao
Ôi những môi hôn ngọt ngào trong Casablanca
Giờ là những môi hôn âu sầu vì người đã xa
Hỡi anh yêu mau quay về bên Casablanca
Lòng vẫn mãi mãi yêu anh dù thời gian có lướt qua…
____________
Casablanca (Bertie Higgins)
_______________
Sao Không Đến Bên Em (Khánh Hà)