Chọn người cai quản Thăng Long

Bản đồ Thăng Long thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1490) và phiên bản có chú thích chữ Quốc ngữ. (Wikipedia.org)

Thủ đô của một nước thường được coi là đô thị quan trọng bậc nhất. Bởi nó không chỉ có nhà vua và triều đình ngự ở đó, mà nó hội tụ dường như tất cả tinh hoa của dân tộc được kết tinh từ cổ đại đến đương đại. Hơn hết đó là bộ mặt của cả một quốc gia chứ không của riêng địa bàn Thăng Long.

Từ khi có Thăng Long (1010), bản thân nó đã được truyền thừa văn hóa của tổ tiên người Việt, ít ra từ thời Hồng Bàng, khoảng 4000 năm trước. Và cứ thế, trải qua năm tháng, bề dầy lịch sử càng cao, trầm tích văn hóa tích tụ càng sâu, và mỗi thời lại bồi đắp thêm. Chẳng thế mà từ năm 2005 đến 2008, khai quật trong lòng đất khu vực hoàng thành đã phát lộ ra, và xác định được tới năm, sáu tầng văn hóa. Đó là văn hóa Đại La, văn hóa Đinh – Lê, văn hóa Lý – Trần, văn hóa hậu Lê (gồm Lê – Trịnh – Mạc), văn hóa Nguyễn. Đó là chưa kể xen kẽ có cả văn hóa thực dân như Hán – Đường.

Nhà Lý mở ra tại Thăng Long một nền văn hiến, mà trước đó mới chỉ manh nha. Văn hóa Lý khởi phát từ Thăng Long, đặt nước ta vào xu thế phát triển mạnh nhất trong khu vực. Nhiều bình diện kinh tế và cả tổ chức quân đội, nhà Tống còn phải học.

Sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn có chép “Thái Diên Khánh làm quan ở đất Hoạt, ra sức nghiên cứu binh pháp nhà Lý từ tổ chức quân đội, phiên chế đơn vị, khí tài cho đến hành binh tác chiến… chia ra từng môn loại. Thái Diên Khánh viết thành sách, dâng lên vua Thần tông nhà Tống, được vua khen và sai áp dụng”. Chẳng là thuở ấy, sức chiến đấu của quân Tống yếu kém, bạc nhược. Phía Bắc thì nước Liêu, phía Tây thì nước Hạ đánh cho tơi tả. Nhà Tống phải cắt đất cầu hòa, và chịu triều cống hàng năm với chi phí rất lớn.

Chẳng những thế, đầu thế kỷ 20, toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier khi nghiên cứu về văn hóa, lịch sử Việt Nam, đặc biệt chính sách “Ngụ binh ư nông” của nhà Lý, ông đã có nhận xét vừa chính xác vừa hàm ý thán phục: “Nước Nam biết dùng binh lính vào nơi đồng ruộng trước cả nước La Mã cổ xưa” (L’Annam à connu le soldat laboureur avant la Rome antique).

Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. (ảnh: Wikipedia)

La Mã là đế quốc hùng mạnh từng thống trị cả châu Âu. Thành ngữ: “Tất cả mọi con đường đều dẫn tới thành Roma”, là để nói về vai trò và địa vị độc tôn của La Mã thời Trung cổ.

Về kinh tế, sử sách Trung Hoa còn ghi rành rành, có viên quan họ Lâm cai trị vùng Quảng Đông, thấy dân chúng liền năm mất mùa đói kém. Khi qua Giao Châu được mời ăn một thứ đặc sản gọi là “khoai lang” liền hỏi cách trồng và xin giống về cho dân trồng thử. Ba năm sau Quảng Đông chấm dứt được nạn đói kinh niên. Sau khi ông mất, dân nhớ ơn lập đền thờ gọi là “Lâm Công miếu”, hiện vẫn được sùng kính. Ngoài ra nghề làm lụa từ tơ dứa, tơ chuối, tơ sen hoặc nấu thủy tinh từ cát đều lấy từ nước ta. Thế nhưng nhiều kẻ mất gốc sùng ngoại, nhất nhất cái gì của ta, chúng cũng nói có gốc từ Tầu.

Thời nào cũng vậy, Thăng Long đều hội tụ được nhiều nhất các nhân tài và hiền tài, tập trung làm việc trong bộ máy của triều đình và của Thăng Long.

Thử hỏi đất nước có việc gì lớn như chủ trương, quyết sách lại không phát ra từ thủ đô. Thủ đô là nơi mở ra các cuộc thi đại khoa để kén nhân tài. Thủ đô là đầu mối chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Thủ đô còn là trung tâm giao tế, nơi đón tiếp các sứ đoàn ngoại quốc đến và đi.

Vai trò của kinh đô quan trọng là vậy, nên tất cả mọi thời đại, triều đình đều phải kén người có đủ đức, đủ tài để coi quản kinh đô.

Thời nhà Lý gọi người đứng đầu cai quản các tỉnh là An phủ sứ. Riêng người đứng đầu kinh thành Thăng Long gọi là Đại an phủ sứ. Nhà Lý coi trọng người có thực tài, không phân biệt nguồn gốc xuất thân. Tuy vậy, người tài ấy còn phải có phẩm hạnh tốt, còn để làm gương cho dân chúng. Các vua nhà Lý sống rất sát dân nên các quan coi quản công việc không thể làm tắc trách được.

Lấy ngay việc hình án, vua thường răn các quan phải thận trọng, chớ để người dân bị hàm oan. Và để các quan án yên tâm làm việc, ngoài lương bổng nhà vua còn cấp cả tiền và hiện vật như lúa, cá khô… Những thứ tiền và hiện vật đó, gọi chung là vật dưỡng liêm. Quan chức cao nhất ở ngành án, luật (đô hộ phủ sĩ sư) mỗi năm được cấp thêm 100 bó lúa, 5 giành cá khô và 100 quan tiền. Cấp phó cũng được hưởng số hiện vật như cấp trưởng, nhưng số tiền chỉ bằng một nửa: 50 quan.

Mùa Đông giá rét, vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) còn vào tận trại tù xem xét việc chăm nuôi có khả dĩ hay khắc nghiệt. Vua thường nhắc các án ngục lại rằng, người dân đôi khi không hiểu pháp luật mà vô tình mắc tội, có khi bị áp bức, bị vu oan giá họa nên mắc vòng lao lý. Cũng có khi người xử án không công tâm, án phạt nặng nề khiến người dân chịu đời đau khổ. Do vậy, nhà vua hạ lệnh tất cả người tù đang chịu án đều nhất loạt được khoan giảm một bậc và phát chăn, áo ấm cùng mỗi ngày hai bữa cơm no.

Vua như thế, quan nào dám lơ là trách phận. Chính vì thế mà vị quan nào được cử làm Đại an phủ sứ ở kinh sư (nay gọi là Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội), phải là người đức độ, thực tài thì mới trụ được. Bởi mỗi việc quan Đại an phủ sứ làm, không chỉ người dân kinh thành giám sát, mà còn hàng trăm cặp mắt của các đại quan của cả triều đình nhìn ngó.

Nhà Lý tuyển chọn chức Đại an phủ sứ đã kỹ, nhà Trần chọn người vào vị trí này còn kỹ hơn nhiều. Có tiêu chí, có giám sát nhân cách và tài năng từ khi người được dự tuyển còn làm việc tại các nơi khác.

Năm Mậu ngọ (1258) vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con, ngài ở vị thế Thượng hoàng để giám sát việc triều chính do vua nối điều hành. Thượng hoàng chỉ uốn nắn các việc vua nối, để nói là được hoặc chưa được, chứ không tự mình điều hành. Ngài quan sát bộ máy rất kỹ và tới năm Ất Sửu (1265) ngài khuyên nhà vua (Trần Thánh Tông) ban bố chính lệnh tuyển chọn người đưa vào chức vị coi quản kinh thành Thăng Long.

Tượng vua Lý Thánh Tông. (ảnh: Nguyễn Thanh Quang/Wikipedia)

Trước hết, người đó đã ở chức An Phủ sứ các lộ (tỉnh), biểu hiện được chân tài và được dân mến. Tức là trong 18 quan đầu tỉnh, chọn lấy một người xuất sắc nhất cho về làm An phủ sứ phủ Thiên Trường, nơi ấy có Thượng hoàng (Trần Thái Tông) đang an ngự. Mọi việc quan An phủ sứ phủ Thiên Trường điều hành đều có sự giám sát của Thượng hoàng. Qua các kỳ khảo duyệt hàng năm, nếu đạt chuẩn, sẽ điều về kinh sư. Trước hết được giao giữ chức Thẩm hình viện sự, nếu làm tốt việc này mới cho nhận chức Đại an phủ sứ của kinh sư.

Tại sao quan Đại an phủ sứ phải kinh qua chức Thẩm hình viện. Đây là chức Chánh án Tòa án? Nắm giữ chức này để kiểm tra xem người sẽ đứng đầu kinh thành có thông hiểu luật pháp không. Và qua xét xử không có án oan sai, không có án tồn đọng mới chứng thực được là người có tài, có đức. Chỉ người như thế mới xứng đáng được giao phó việc coi quản Thăng Long.

Việc Thượng hoàng Trần Thái Tông đích thân tuyển chọn nhân sự cho Thăng long, viên quan nội hầu liền bầy tỏ lòng trung:

– Tâu Thượng hoàng, con nghĩ, Người đã vất vả suốt đời rồi, nay chỉ có việc nhỏ là cử người coi quản Thăng Long, Thượng hoàng cứ giao hẳn cho Quan gia và triều đình tuyển lựa, chứ như Thượng hoàng theo dõi năng lực tất cả các An phủ sứ trong cả nước, rồi chọn lấy một người về Thiên Trường, cũng lại Thượng hoàng giám sát, thấy được rồi mới cho bổ nhiệm về Thăng Long. Con nghĩ như thế, Thượng hoàng chẳng có lúc nào được nghỉ ngơi.

-Sao ngươi dám ăn nói càn rỡ; dám bảo việc chọn người đứng đầu kinh thành Thăng Long là việc nhỏ. Ta vẫn thường nói, Thăng Long vừa là tinh hoa, vừa là bộ mặt của cả nước, không thể cẩu thả, xem thường kẻ sĩ và dân chúng Thăng Long mà đặt bất kỳ đứa cha căng chú kiết nào vào chức vị đó cũng được đâu.

Việc bổ nhiệm quan Đại an phủ sứ của kinh sư được các nhà Lý – Trần rất coi trọng. Vì thế Thăng Long luôn giữ vị trí hàng đầu để làm gương cho các lộ (tỉnh).

Sang các thời Lê rồi Lê – Trịnh và Mạc, Nguyễn, chức vụ người coi quản kinh sư gọi là Phủ Phụng Thiên. Tuy nhiên, người coi quản sau này thường là người của các phe nhóm, nên không phải Thăng Long thời nào cũng là đô thành mẫu mực. Nhất là thời Lê – Trịnh, kinh thành đôi phen nhếch nhác, bởi loạn kiêu binh nhà Trịnh, khiến dân chúng oán giận triều đình, và truy sát lũ kiêu binh như truy sát giặc.

Lịch sử đã để lại cho ta bài học vô cùng quí báu. Các đời sau, nếu khiêm tốn học lấy bài học bổ nhiệm cán bộ của thời Lý, thời Trần, chắc chắn Thăng Long – Hà Nội vẫn là đô thành đáng sống nhất của cả nước. Và nếu các tỉnh theo kịp Hà Nội, thì bất cứ nơi nào của nước ta cũng là nơi đáng sống.

Đọc thêm:

-Trả lại công bằng cho ông Khai Trí (1926-2005)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: