Kỹ nữ bên Tàu

(Hình minh họa: Unsplash)

Trong kho tàng văn học Đông Á, không có nhân vật nào vừa khiến người ta thương cảm, vừa khiến người ta… tội nghiệp cho các ông thi sĩ như hình tượng kỹ nữ.

Tàu là xứ sản sinh ra cả kho tàng chuyện buồn rơi nước mắt về những người con gái sa cơ thất thế, phải bán phấn buôn hương để đổi lấy cơm gạo. Mà nói cho ngay, nhờ mấy em mà thơ đời Đường mới thăng hoa, văn đời Tống mới thở dài, còn mấy ông thi sĩ mới có cái cớ để… ôm lưng người đẹp vừa nhậu vừa ngâm thơ.

Ngẫm lại, kỹ nữ bên Tàu vừa là nạn nhân, vừa là nguồn cảm hứng, vừa là “người tình văn học” của biết bao văn nhân mặc khách.

Sách sử kể rằng nghề kỹ nữ bên Tàu có từ thời Xuân Thu. Cái nghề “bán thân mẹo dậu” này không chỉ để chỉ chuốc rượu, đàn hát, trò chuyện, mà còn ôm ấp, mua vui, thậm chí bán thân xác – mà nay gọi là “ anh hai dịch vụ tăng hai?”

Quản Trọng, tướng quốc của Tề Hoàn Công, còn có sáng kiến kiếm tiền bằng cách mở tới 700 lầu xanh, vừa để “quản lý xã hội”, vừa để thu thuế cho quốc khố. Đọc tới đây, tôi xin tâm phục, khẩu phục, bái phục, tao lạy mầy luôn tầm nhìn chiến lược của tổ nghề kinh doanh dịch vụ người lớn.

Nhưng điều đáng nói hơn là: kỹ nữ bên Tàu để lại dấu ấn quá sâu trong văn chương tao đàn, mầy đàn.

Trước hết phải kể tới Đỗ Mục, tác giả bài Khiển Hoài mà dân mê thơ Đường ai cũng biết. Ông bị đày tới Dương Châu, gặp một em kỹ nữ trẻ đẹp. Tương truyền, một buổi chiều mưa gió, Đỗ Mục ôm cái lưng nhỏ xíu, thon thon của cô mà thốt ra mấy câu thơ nổi tiếng. Người đời sau đọc mà thương cô bao nhiêu thì cũng… nghi ngờ cái động cơ sáng tác không trong sáng của ông bấy nhiêu.

Rồi đến Bạch Cư Dị. Bị biếm chức, bị đày đi làm Tư Mã ở Cẩm Giang, ông gặp người kỹ nữ chơi đàn tỳ bà. Nàng là một tài nữ lỡ vận, “ngày xưa phong lưu phóng khoáng, giờ xuống thuyền gõ đàn kiếm cơm.” Ông nghe xong mà thổn thức, viết ra bài Tỳ Bà Hành, một kiệt tác dài hơi, vừa ca ngợi tiếng đàn, vừa thương phận người kỹ nữ khi phấn lạt hương phai.

Nói thiệt, nếu không có mấy em kỹ nữ, chưa chắc đời Đường đã có những bài thơ khiến đời sau phải học thuộc tới nằm lòng. Thành thử, tôi dám quả quyết rằng giới văn nhân phải mang ơn kỹ nữ không ít.

Cái hay của kỹ nữ bên Tàu ở chỗ họ không chỉ bán thân xác mà còn bán tài nghệ. Họ hát, múa, đánh đàn, làm thơ đối đáp, pha trà, chơi cờ… đủ thứ nghệ thuật tao nhã. Nói theo kiểu thời nay, họ là đa năng, đa tài thời phong kiến, vừa đẹp, vừa khéo, vừa biết cách nắm thóp tâm lý khách hàng.

Nhưng sau những ánh đèn lầu xanh, sau tiếng đàn, tiếng hát, lại là những phận đời tăm tối. Không ai tự nguyện bước vào con đường này. Họ là nạn nhân của nghèo đói, chiến tranh, loạn lạc, hoặc bị gia đình bán đi trả nợ. Cái nghề bị khinh rẻ nhưng lại được hưởng nhiều ánh mắt ham muốn của đàn ông – một nghịch lý kéo dài mấy nghìn năm.

Trước khi trách, hãy nhìn lại xã hội. Thời nào cũng vậy: người đàn ông có quyền thế thì phóng túng, còn phụ nữ thì bị cột bởi “tam tòng tứ đức”. Một cô gái phạm sai lầm là bị đời chửi bới cả đời. Còn một ông quan lớn lỡ bước vào thanh lâu thì gọi là “khám điền thổ”, “khảo sát xã hội”, “giải trí lành mạnh”, hoặc “thẩm định văn hóa”.
Cho nên mới có chuyện văn nhân thương hại kỹ nữ mà vẫn… đi kỹ nữ cho em kiếm tí tiền. Mâu thuẫn vậy mà cả hai đều sống khỏe re!

Tiếc thay, càng vào thời phong kiến về sau, số phận người kỹ nữ càng hẩm hiu. Các cô bị xem như món hàng, bị bán, bị chuộc, bị quản lý bởi “má mì”, bị kẻ quyền thế cưỡng bức. Văn chương thì nói hay lắm, nhưng hiện thực thì tàn nhẫn vô cùng.

Tuy vậy, chính trong hoàn cảnh cay đắng đó mà hình tượng kỹ nữ trở thành nơi ký thác của lòng thương cảm, của cái đẹp đượm buồn. Thúy Kiều của Nguyễn Du, dù là nhân vật Việt Nam, nhưng lại mang bóng dáng các cô gái Tàu trong văn chương cũ: tài sắc, đa truân, lao lung vì chữ hiếu, bị xã hội dày vò đến tận cùng.

Ta nói “nghề xưa như trái đất,” nhưng ở bên Tàu, cái nghề ấy còn gắn với cả một tầng văn hóa: lầu xanh, tỳ bà, thơ Đường, rượu nồng, đèn mờ, khách làng chơi, và cả những giọt lệ cuối đêm về ế khách.

Điều đáng buồn nhất: dù bao đời qua, dù thơ văn có làm đẹp nghề bao nhiêu, thì kỹ nữ bên Tàu vẫn chỉ là người phụ nữ bị bóc lột. Một nhà nho có thể thương họ trong thơ, nhưng ngoài đời vẫn để họ sống phận bọt bèo. Một ông quan có thể say mê tiếng đàn, nhưng vẫn xem họ như món đồ trang sức mua vui.

Đến cuối cùng, kỹ nữ bên Tàu là một bi kịch kép: bi kịch của thân phận phụ nữ và bi kịch của một xã hội trọng nam khinh nữ kéo dài hàng nghìn năm.

Nhưng nếu không có họ, lịch sử văn học Trung Hoa đã mất đi một nửa linh hồn. Có lẽ vì vậy mà bao người đọc, dù thế kỷ 21 hay đời Đường, vẫn thương cho tiếng tỳ bà giữa đêm trăng nước Cẩm Giang, hay cái lưng bé nhỏ trong buổi chiều mưa ở Dương Châu.

Một tiếng thở dài từ nghìn năm trước, còn vọng mãi tới bây chừ mà chưa có nhừ!

(Kỳ tới: Kỹ nữ bên Tây)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: