Máy hát dĩa xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 tại Việt Nam, giúp người có điều kiện có thể nghe nhạc hay nghe hát cải lương tại nhà mà không nhất thiết phải đến rạp. Mấy chục năm sau, từ khoảng thập niên 1960, miền Nam đón nhận một loại máy phát nhạc dùng băng cartridge (lớn hơn băng cassette một chút), nhưng không được dùng nhiều. Sau đó, loại máy hát sử dụng băng magnetic (lúc đó chỉ gọi đơn giản là băng nhạc – phân biệt với dĩa nhạc và băng cassette – nay gọi là băng cối) được ưa chuộng, chiếm lĩnh thị trường máy nghe nhạc. Loại máy này còn gọi là đầu máy Akai vì hầu hết người chơi dùng máy hiệu Akai của Nhật.
Cùng ôn lại chuyện nghe nhạc thời trước năm 1975, anh Hữu Thạnh, một nhạc sĩ từng chơi nhạc ở phòng trà Văn Cảnh xác định: Thời đó người Sài Gòn vẫn thích nghe máy hát dĩa, nhất là giới chơi nhạc chuyên nghiệp (thường gọi là máy dĩa, không phổ biến từ “đĩa” như bây giờ) nhưng máy nghe băng nhạc “cối” đã thu hết hồn vía người mê nhạc. Lúc đó, có thể coi cải lương, xem ca nhạc trong đài truyền hình băng tần số 9. Tuy nhiên, chương trình truyền hình chỉ có vài giờ buổi tối trong khi cái máy Akai có thể nghe được bất cứ lúc nào, âm thanh qua ampli và loa “hay như trong phòng trà”. Ngày Chủ nhật, ngày giáp Tết, mở máy nghe Duy Khánh, Thanh Thúy hát thì cả xóm mê chứ không chỉ một nhà. Đã vậy, các cửa hàng P.X đưa ra thị trường Sài Gòn nhiều loại máy, ampli, loa tha hồ chọn lựa nên ai nấy cố tậu cho mình một dàn máy. Nghe Akai lại tiện, không nhất thiết chỉ nghe băng gốc tốn kém, có gì nghe nấy cũng được vì lúc đó, từ cuối thập niên 1960, ở Sài Gòn và một số đô thị miền Nam đã nở rộ dịch vụ sang băng nhạc cho khách yêu nhạc có máy nghe ở nhà.
…….
Sản xuất băng nhạc nội địa
Nắm bắt được nhu cầu nghe nhạc trong nước, một số trung tâm ở Sài Gòn bắt tay vào sản xuất băng nhạc. Theo ký giả An Phong trên tạp chí “Thời Nay” xuân Canh Tuất 1970, cuối thập niên 1960, ở Sài Gòn có bốn trung tâm lớn đặt đại lý trên toàn miền Nam, dẫn đầu là trung tâm Jo Marcel được cho là có thể so với các trung tâm ở nước ngoài (?). Trung tâm này đi đầu trong việc sản xuất băng nhạc bán cho khách. Ông Jo Marcel có ưu thế so với các chủ phòng thu khác là có phòng trà Jo Marcel ở đường Hai Bà Trưng (gần đường Thái Lập Thành, nay là Đông Du) nên băng nhạc sống do cơ sở này sản xuất là độc quyền. Ông có studio gắn máy lạnh ở lầu hai thương xá Tam Đa. Đến đầu năm 1970, số băng gốc mà Jo Marcel phát hành là 14 cuốn, mỗi đợt băng gốc sản xuất ra khoảng 2 ngàn băng. Tính trung bình mỗi ngày gian hàng bán băng của ông tiêu thụ được 50 cuốn băng, giá mỗi cuốn là 2 ngàn đồng.
Ngoài trung tâm Jo Marcel, trung tâm Mây Hồng của nhạc sĩ Y Vân cũng là nơi sản xuất và phát hành băng nhạc khá lớn, gây được nhiều tiếng tăm nhờ hệ thống âm thanh ba chiều chuyển động. Nghe băng Mây Hồng, có cảm tưởng giọng hát ca sĩ chạy từ loa này sang loa khác, có hồn hơn. Kế đến là Trung tâm ghi âm tân cổ nhạc Hùng Cường do nghệ sĩ Hùng Cường làm giám đốc và cơ sở thu băng Tú Quỳnh do nhạc sĩ kiêm giáo sư Triết là Phạm Mạnh Cương làm chủ. Điểm chung của các trung tâm này là có người đầu tư là các nghệ sĩ.
Bùng nổ tiệm sang băng
Đầu thập niên 1970 là đến thời hoàng kim của nghề sang băng nhạc. Theo An Phong, từ đầu năm 1969 các tiệm sang băng ở Sài Gòn mọc lên như nấm, y như trước đó có phong trào mở quán cà phê thời trang. Các tờ nhật báo và tuần báo hầu như đều có các trang quảng cáo về tiệm thu băng. Ở thương xá Tam Đa đường Công Lý có ít nhất 6 cơ sở thu băng và sản xuất băng nhạc khá lớn.
Thương xá Tax cũng có vài tiệm, chưa kể khoảng chục kiosque thu băng mọc rải rác dọc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ. Tại đường Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sĩ đoạn quận 3) có tiệm “Gia Long Record’s”, đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng) có “Sơn Hải thu băng”, khu Đa Kao có “Trung tâm thu băng TK”, đường Nguyễn Thiện Thuật tuy ngắn nhưng có ba tiệm bậc trung là Da La, Hoa Xuân và Thời Trang.
Kể cả các kiosque bán hoa trên đường Nguyễn Huệ ngoài việc bán hoa, cũng nhận thu sang băng, như kiosque Bạch Lan 5… và hàng trăm tiệm thu băng ở các con đường khác nhau. Anh Thạnh cho biết ưu thế luôn ở các tiệm lớn vì họ dùng máy sang băng mới, đầu từ tốt. Khi đầu từ mòn dần, chất lượng kém đi thì họ bán cho các tiệm nhỏ hơn. Đó là lý do các tiệm lớn có chất lượng sang băng cao hơn và thu hút khách sành điệu hơn.
Trong các tiệm sang băng, chủ tiệm bày nhiều băng mẫu trong các tủ kính và có một chồng album ghi tên các bản nhạc cho khách lựa chọn. Tiệm nào cũng có những loại nhạc như sau: Nhạc thời trang, nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc ngoại quốc và đặc biệt là “nhạc sống” (thu ở phòng trà, vũ trường). Vài tiệm lấn lướt hơn các tiệm khác, thu cả kinh Phật (kinh cầu an, kinh sám hối), và đầy đủ các bộ môn ca Bắc, hát cô đầu, ca Huế, chèo cổ, ngâm Kiều, hát chầu văn và cả các bài học Anh, Pháp, Đức, Nhật với sách dạy kèm theo. Không có tiệm thu băng nào bỏ qua tuồng cải lương và tân cổ giao duyên.
Anh Thạnh nhớ lúc đó, giới chơi khiêu vũ khá đông, nhạc khiêu vũ do tiệm tự chọn, thu từng bài để hình thành những băng riêng cho khách chọn lựa. Những dĩa nhạc ngoại quốc quá ăn khách nhưng không đủ dĩa nhập về để bán thì sẽ được sang ra băng, như ban nhạc Santana ở Mỹ xuất hiện ở Đại hội nhạc trẻ Woodstock 1969 do tay guitar lão luyện Carlos Santana cùng các thành viên khác là Gus Rodriguez (bass guitar), Rod Harper (trống) biểu diễn. Sinh viên học sinh thích nghe nhạc phản chiến, nhất là từ 1972 với nhạc Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Quang, và một số khác thích nhạc Phạm Duy và ban Phượng Hoàng, là ban nhạc trẻ lừng lẫy do hai nhạc sĩ Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang thành lập với phong cách Việt hóa pop rock. Số đông thích nghe nhạc Phạm Mạnh Cương với đa số là tình ca. Giới trung niên thích nhạc Đỗ Lễ, nhờ có chương trình riêng trên tivi nên mức độ phổ biến cao. Nhạc Lam Phương với phong cách sáng tác trữ tình và đa dạng rất thu hút người nghe, một phần cũng nhờ phổ biến trên chương trình kịch Túy Hồng. Còn có một tỷ lệ nhỏ thính giả thích nhạc cổ điển như nhạc Tchaikovsky, Mozart. Khi nhạc boléro, nhạc lính lên ngôi, tỷ lệ băng bán ra còn nhiều hơn trước.
Đến đầu thập niên 1970, máy và băng cassette xuất hiện với băng nhỏ gọn. Tuy vậy, nhiều người vẫn chuộng nghe băng cối và dĩa nhạc. Muốn máy và băng casette được chú ý hơn, người ta đã tặng cho khách đến xem phim một cuốn băng cassette khi chiếu bộ phim Love Story ở Sài Gòn.
Sang băng – nghề kiếm cơm ngon
Theo An Phong, phần lớn các tiệm do các bà các cô trông coi. Trước đó, khi tiệm sang băng mới ra, có hiện tượng khách hàng chạy theo tiệm sang băng. Khách đến sang băng chỉ có quyền lựa chọn một mặt băng thu sẵn. Chủ tiệm cho là như vậy đỡ mất công và đỡ tốn thời giờ, cứ để sẵn một chồng băng theo thứ tự và khách chọn rồi bấm nút.
Chủ tiệm cho biết là mỗi tháng thu chục cuốn là dư sở hụi. Đến thời điểm đó, công thu một cuộn băng 1800 ft, tốc độ 7 ½ chừng 300 đồng (thu mono 3 ¾ giá 600 đồng), công thu bài học Anh văn bộ English for Today tùy theo cuốn, cuốn 1 và cuốn 2 giá 300 đồng, cuốn 3 giá 400 đồng. Một bản tân nhạc giá 15 đồng. Nhạc ngoại quốc 25 đồng. Nhạc tiền chiến mắc nhất 30 đồng. Vì kiếm tiền dễ lại nhàn hạ nên tiệm sang băng mở ra rất nhiều ở Sài Gòn. Chỉ nội năm 1969 chỉ đọc trên mặt báo thấy xuất hiện tới 20 tiệm thu băng mới. Sang năm 1970, một chuyên viên trong lĩnh vực này ở đường Gia Long đánh giá có khoảng 100 tiệm mở ra.
Sau đó, các tiệm có thu băng cho khách nhưng giá gấp đôi khi thu từng bài mà khách chọn sẵn.
Muốn có tiệm sang băng, phải có tiền mua máy móc. Các tiệm ở Sài Gòn thời đó đều dùng hai loại máy Akai và Teac. Nếu băng nhạc của khách muốn thu nhiều tiếng trầm thì dùng Teac vì Akai thâu tiếng bổng rất khá nhưng thu tiếng trầm thì thua Teac một bậc. Phải có ít nhất 8 máy thu. Về băng, nên dùng băng Scotch. Sau khi có trong tay băng mẫu từ các trung tâm lớn, các quán làm băng “tài liệu” cho tiệm mình bằng cách đi một vòng các tiệm sang băng xem khách hàng đa số thích loại gì mới đầu tư xào nấu các băng mẫu, cắt đầu cắt đuôi, lọc bài dở, thêm bài hay.
Băng “tài liệu” phải hay thì băng sang cho khách mới hay được. Rồi còn phải lo mua dĩa nhạc gốc, trung bình mỗi tiệm phải có khoảng một ngàn bản nhạc đĩa, 100 tuồng cải lương và đầy đủ các bài học Anh, Pháp, Đức, Nhật. Dĩa xài mau hỏng nên khi thu phải xài băng. Muốn chắc ăn, dĩa nhạc ngoại quốc mua về sang băng hết rồi bán đi để lấy lại vốn. Vốn để mua máy, băng, dĩa mẫu và quảng cáo từ khoảng 1 triệu đến 1.5 triệu đồng trang bị cho một tiệm cỡ trung. Các trung tâm lớn có thể lên tới 5 triệu.
Giới thu băng thời đó đánh giá cao sự lợi hại của việc quảng cáo tiệm thu. Khách ở tỉnh về Sài Gòn thường dựa vào quảng cáo trên báo để tìm chỗ thu băng. Tất nhiên là quảng cáo phải đi với kỹ thuật thu tốt thì khách mới quay lại lần sau.
Không lâu trước năm 1975 và sau đó, máy và băng casette đã được dùng nhiều hơn. Một anh bạn kể là khoảng từ năm 1984 đến 1988, dân Sài Gòn thường ghé studio của ca nhạc sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh tại chung cư Phạm Thế Hiển, quận 8, để mong có dịp gặp thần tượng một thời của mình và nhờ thu băng cassette, nhằm thỏa mãn nhu cầu nghe nhạc trữ tình của dân Sài Gòn cũ, trong đó có không ít khách hàng từ miền ngoài vào.
Sau đó, thu nhập của các cửa hàng thu băng đến từ việc sang băng casette ngoại ngữ, đặc biệt là bộ Streamline English của nhà xuất bản Oxford (được xem là “thánh kinh” của người dạy và học Anh ngữ giai đoạn này). Giai đoạn đầu thập niên 1990, các tiệm thu băng vidéo phát triển, cách tổ chức cũng na ná như các tiệm sang băng nhạc “cối” ngày xưa.
Đến đầu thập niên 2000, giới chơi âm thanh phục hồi lại thú chơi dĩa nhạc và băng cối. Cho đến tận bây giờ, một số người nghe nhạc sành điệu vẫn thích nghe loại băng này, không phải chỉ vì chạy theo xu hướng hoài cổ mà vì chất lượng âm thanh của loại nhạc phát ra từ loại máy và băng này vẫn đạt đến độ chân thật cao và có sắc thái riêng.