Nhạc sĩ Phạm Duy đã dành nhiều sức sáng tác, nghĩ suy của mình để lại, đặc biệt là với những tháng ngày sau năm 1975, khi ông đến và sống cuộc đời khác trên đất Mỹ, trải qua một chuyến dạ hành bàng hoàng.
Dạ hành là cách nói của ông để mô tả về những ngày tháng ra biển, ở trại tỵ nạn và sau đó được tạm cư khởi đầu tại Florida. Dạ hành, bởi theo ông, với những điều của gia đình mình thấy, và của những những người Việt khác là:
“Bất cứ ai trong chuyến ra đi này cũng có thể nói rằng đây là đêm đen nhất, dài nhất của đời mình. Những phi vụ chở người tị nạn từ Saigon qua căn cứ không quân Clark ở Phi Luật Tân rồi lại bay ngay đi đảo Guam hay đảo Wake, đó là những chuyến bay đêm. Đúng ra, vì sự khác nhau của thời khắc ở những vùng cách nhau vài kinh tuyến, đêm phải ngắn chứ? Vậy mà phi cơ bay hoài cũng chỉ gặp toàn đêm và đêm thôi. Mặt Trời đâu rồi? Đêm hôm nay không phải là đêm 12 tiếng đồng hồ, thời gian thực tại của đêm ngắn đi vài ba tiếng nhưng thời gian tâm lý thì dường như kéo dài dằng dặc…”
Gia đình của nhạc sĩ Phạm Duy vừa may mắn, vừa xui rủi trong những ngày rời khỏi Việt Nam vào Tháng Tư 1975. May mắn, vì ông ra đi rất êm đềm vào rất sớm. Ngày 28 Tháng Tư, một nhân viên CIA của Tòa Đại Sứ Mỹ tên Ed Jones đã cho ông và một số ít trí thức, thành phần đặc biệt – vốn không thể ở lại Sài Gòn vì sợ Bắc Việt trả thù – một địa chỉ bí mật tập trung ở đường Kỳ Đồng, Quận 3, để được đưa đi. Nhạc sĩ Phạm Duy cùng vợ và con gái Thái Hiền đi trước, cùng nhiều đồ vật kỷ niệm – mà cũng là niềm cảm hứng sáng tác của ông suốt nhiều năm tha hương về sau. Nhưng xui rủi là có bốn đứa con của ông đi sau và kẹt lại. Cảnh hỗn loạn vào giờ cuối đã khiến cả bốn người không đến được điểm trực thăng đưa di tản. Điều đó làm Phạm Duy khốn khổ vô cùng, tận cho đến khi gặp lại mọi người đầy đủ, sau này ở Mỹ.
Nhạc sĩ Phạm Duy kể, vào ngày 30 Tháng Tư, khi còn trên đảo Guam, ông nghe người kế bên mở cái radio chạy pin, phát bản tin về quân Bắc Việt đã vào đến Sài Gòn. Nhiều người vây quanh nơi có tin tức này sầu lặng nghe. Nhưng không đợi hết bản tin, nhạc sĩ Phạm Duy vì tâm tình dồn nén, không chịu nổi nên bỏ chạy ra ngoài, đi thẳng ra bờ biển gần đó. Trong hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy, ông kể lại giờ phút đó, với sự tuyệt vọng của mình, rằng “Tôi đã không còn là tôi nữa rồi”. Câu nói đó cũng giống như niềm tuyệt vọng của rất nhiều người tại miền Nam lúc đó, những người sống và tin vào xã hội, đất nước của mình và cảm thấy mọi thứ mất hết, không còn gì kể cả bản thân. Đó là số phận chung của hàng triệu người miền Nam bị mất căn cước công dân tự do, sau Tháng Tư đó.
Nhạc sĩ Phạm Duy kể lại sự giày vò cứ dội lên trong từng khoảnh khắc, mỗi khi nghe về những đổi thay đang diễn ra tại Việt Nam qua giọng đọc của cô Kim Vui trên Đài phát thanh Sài Gòn.
“Trong suốt Tháng Tư này, kẻ trước người sau bỏ nước ra đi nhưng Saigon và vùng Hậu Giang hãy còn, nay nghe tin Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay Cộng Sản, mặt ai cũng sa sầm, mắt ai cũng rớm lệ, đầu ai cũng cúi gằm. Khi cô Kim Vui đọc xong bản tin và bản thông cáo, mọi người lủi thủi bước đi trong sự lặng lẽ tột độ. Người mình xưa nay vốn rất ồn ào vì thích nói nhiều, nói to. Chưa bao giờ tôi thấy hình ảnh lạ lùng là một đám rất đông người Việt đi đi lại lại mà không có một tiếng động nào cả. Trông chẳng khác chi những bóng ma trong một khúc dạ hành…”, nhạc sĩ Phạm Duy kể lại.
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng nhắc lại thời khắc mà tiếng hát Nối Vòng Tay Lớn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vang lên trên radio của Đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi tất cả mọi người hãy cùng bỏ súng và hợp tác với chế độ mới. Ông kể vào lúc đó, người chủ cái radio tức giận bật lên tiếng chửi thề rồi tắt máy ngang.
Trong lặng thinh sau đó, nhạc sĩ Phạm Duy nói ông suy nghĩ mông lung về tiếng hát nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vang lên kêu gọi hòa hợp với chế độ mới. Thậm chí ông còn tự hỏi rằng có cái gì vội vã hay ít thiết tha đến mức cây đàn guitar cho bài hát đó còn không lên được lên dây đúng? Trong giới nghệ sĩ vào Nam từ năm 1954, có lẽ Phạm Duy là người có đủ kinh nghiệm về cộng sản miền Bắc, do đó, có lúc ông cũng tự hỏi rằng nếu như mình còn kẹt lại Sài Gòn thì liệu, tiếng hát đó không phải của Trịnh Công Sơn mà là của mình thì sao? Trong cuộc chiến tranh vừa tạm dừng, súng vẫn giương cao nòng, và kèm sự cao hứng và kiêu ngạo của bọn chỉ điểm, của các thành phần vũ trang gọi là “cách mạng 30 Tháng Tư”, và cả những kẻ nằm vùng, thì liệu ông có cưỡng lại chuyện phải hát bài phục vụ nào đó không?
Nỗi đau khổ chất chồng, đặc biệt là về chuyện lo lắng cho số phận của bốn đứa con trai còn ở lại là Duy Quang, Duy Minh, Duy Hùng và Duy Cường khiến nhạc sĩ Phạm Duy rơi vào trầm cảm nặng. Lúc đó, bà Thái Hằng là chỗ dựa lớn trong đời ông.
“Tôi lao mình vào giường ngủ, gục mặt vào đống chăn, khóc rống như chưa bao giờ khóc như vậy. Không cần đối thoại, vợ tôi biết các con bị kẹt lại rồi. Dù cũng buồn khổ như tôi, nhưng vợ tôi vốn là người kín đáo, ít khi biểu lộ tình cảm một cách mạnh mẽ như tôi. Tôi vẫn cho rằng trong những năm tháng buồn rầu vì xa bốn đứa con, tôi không ngã quị xuống vì không bao giờ vợ tôi làm tăng thống khổ của tôi lên. Đúng thế, trong những năm xa con, nếu người mẹ này suốt ngày ngồi khóc thầm, oán trời, oán đất, oán chồng thì tôi phải chết từ lâu”, Phạm Duy kể.
Phạm Duy thú nhận rằng bên cạnh chuyện bốn người con, ông cảm thấy mình mất tất cả. Mất quê hương, mất thân phận một người Việt đã đi theo tiếng gọi của tự do, rong ruổi khắp đất nước Việt. Có lẽ đây là tâm tình lớn của ông, tạo nên tác phẩm Một Ngày 54, Một Ngày 75 về sau này. Giới truyền thông hải ngoại có thời gian coi bài hát này là Quốc ca Tháng Tư mỗi khi nhắc về miền Nam sụp đổ. Bài hát này được nói có lúc làm một số nhân vật cấp cao ở Việt Nam sau 1975 vô cùng khó chịu. Tuy nhiên đến 2005, bài này vắng tiếng hẳn, do theo mô tả từ một trung tâm ở Mỹ, đề nghị giấu tên, cho biết là có người đi nhiều nơi, xin không phát bài hát này để nhạc sĩ Phạm Duy được yên ổn trong việc xin mang hài cốt bà Thái Hằng về Việt Nam.
Không giản đơn để quyết định cuộc đời tha hương ở Hoa Kỳ, nói trên một chương trình phát thanh vào năm 1995, nhạc sĩ Phạm Duy tâm tình rằng ông biết sẽ phải mất một thời gian dài, ông mới bước qua được những thống khổ, hoặc nguôi ngoai dần. “Sự thống khổ vào lúc này còn giày vò tôi đến độ tôi muốn trở về Việt Nam ngay lập tức. Hay là nhảy ngay xuống biển tự tử cho rồi…”
Ngày 15 Tháng Năm 1975, nhạc sĩ Phạm Duy chấp nhận đối diện với khúc quanh nghiệt ngã của số phận. Gia đình ông lên máy bay rời đảo Guam để đi đến Eglin, Florida, bắt đầu một chặng đời mới. Lý do ông chọn một nơi thật xa và lạ của nước Mỹ là bởi quá buồn khổ. Ông muốn “ở một nơi nào càng xa quê hương bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu” để không phải nghe thêm gì về những mất mát đang đến ở Việt Nam, với con người Việt Nam.
__________