Sự Chết-Sự Vô Cùng
Tính Không-Tính Lớn Nhất
PNN-Person No Name
Vô tình một cách cố ý-Bản thân thường được đặt vào trong hoàn cảnh THẬT để được “biết/hiểu/sống” thế nào là SỰ KHÔNG/SỰ HỦY DIỆT/SỰ CHẾT. Có thể từ rất lâu 1950’s, 1960’s, nhưng cụ thể từ thời điểm, 1968. Rất nhiều đêm, bất chợt lên xe từ doanh trại, hậu cứ Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù, đồi Long Bình lái qua Nghĩa Trang Quân Đội trước mặt trại, bên kia xa lộ. Lái lòng vòng, đi không chủ đích, đi, không vui, không buồn..
Nếu có một người nào thấy được chắc hẳn sẽ nhận định đang “bị ma dắt”. Sáng 30 Tháng 4, 1975, đứng trước thềm Hạ Viện theo dõi hai chiếc xe ZIL, xe vận tải Trung Cộng chở lính du kích đàn bà từ Phú Lâm theo đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi vào “chiếm đóng” Hạ Viện – Thoáng một giây khắc cực ngắn – Sàigòn biến mất.
Kinh nghiệm về Tính Không/Sự Chết được hiện thực cụ thể hơn trong thời đoạn vào kiên giam đợt hai, 7 Tháng 9, 1981. Trong những căn hầm dài hai thước, ngang một thước, cao ba thước, một chân trong vòng cùng chữ U… Hầm nóng hơn 40 độ vào mùa hè, mùa lạnh đóng băng trên cửa sổ, bóng tối nhờ nhờ đục đục nếu là ban ngày, ban đêm là khối đen tầng tầng chụp xuống. Với hoàn cảnh nầy, nên từ 1985, 1986… dần quên ý niệm ngày/đêm; tên/họ; đang ở trại nào/buồng giam số mấy…
Tình trạng “Hóa Không/Chạm Chết” nầy hiện rõ thêm trong thời gian ở Minnesota, sau biến cố 911 năm 2001, làm An ninh Phi trường, TSA. Xuống ca chiều Chủ Nhật, không biết làm gì, mua vé lên chơi Alaska. Đến nơi, không biết: Ngày/Đêm; Trời/Đất; Trên/Dưới.. Và cuối cùng, qua những năm nơi Arizona sau nầy, ở city nhỏ, vắng người Queen Creek thì thấy ra: Tính KHÔNG QUẢ THẬT CÓ/SỰ HỦY DIỆT-CÁI CHẾT LÀ MỘT ĐIỀU CỤ THỂ/RẤT CỤ THỂ.
Theo như Phần Dẫn Nhập trên, những lời (dưới đây) rất ngại ngùng để viết nên, vì mang vẻ (của) riêng tư, miêu tả, trình bày về bản thân từ một cá nhân – Đây là khuyết điểm trầm kha/chỉ nói loay hoay, quanh quẩn về bản thân mà bất cứ người Việt cầm bút nào (ở VN/nơi Miền Nam) cũng mắc phải.
Họa hoằn lắm mới có những “tay cự phách/trời cho” như Nam Cao với Chí Phèo, Vũ Trọng Phụng-Xuân Tóc Đỏ; Lê Xuyên-Chú Tư Cầu – Những nhân vật tiểu thuyết lớn hẳn so với đồng sàng, đồng cảnh trong suốt Thế kỷ 20. Qua đến Thế kỷ 21, thì tiểu thuyết VN coi như thua cuộc chung với chữ nghĩa toàn thế giới. Thơ rõ ràng đã là một đại thất bại – Vì có cho đến 10 giải Nobel, thì “thi lực và ý lực” của người gọi là nữ thi sĩ Louise Gluck hoàn toàn không (thể) có.
Vì những lẽ trên, người viết (bắt buộc, chân thật) với bản thân nên thấy ra: Phải tìm cách bứt thoát ra khỏi trói buộc của “địa-văn hóa” đối với người cầm bút thuộc một xứ sở vẫn (luôn) bị đánh giá là “chậm tiến”!! Cho dẫu giới cầm quyền cộng sản nơi Hà Nội có bạo gan tự xưng tụng, nói cho hả không ngượng miệng.
Nhưng lần động đất khủng khiếp nơi Thổ Nhĩ Kỳ xẩy ra trong ngày 6 Tháng 2, 2023 vừa qua với cảnh tượng đàn chim hoảng loạn báo động (tương tự thú vật trước sóng thần 26/12/2004 nơi vùng Đông-Nam Thái Bình Dương) cho người viết “thấy/hiểu” ra điều cụ thể: NỖI ĐAU LUÔN LÀ NỖI ĐAU CHUNG – Con Người/Bất cứ Ai cũng nhận đủ thông tin, tín hiệu về SỰ CHẾT – Chỉ khác, đối với mỗi người thì thời điểm, nguyên nhân, hình thái xẩy ra có khác nhau.
Trong nhận định chung kết nầy, thì người Việt không hề thiếu “kinh nghiệm” về tai họa cùng khốn với kết thúc cuối cùng: SỰ CHẾT. Loài chim còn thấy đau huống gì là Con Người – Người Việt thì quá đủ. Cho nên, có những lời “thơ” sau đây. Người đọc biết đâu, cũng có lúc nhận ra: Xem thơ nhường thấy in tình cảnh chung…
Hình minh hoạ: max-beck-unsplash
1/
Khuya đêm lạnh lẽo nhà thương
Hàng giường rợn trắng chập chờn cảnh âm
Mẹ nằm thiếp lặng từ cơn
Thấy chầm chậm chết từ đầu ngón chân!
1960
2/
Người đứng cuối toa tàu
Cuộc đời dưới sâu như vực thẳm
Vào Sài Gòn đăng lính
Một mình,
Đi đâu đây?
1964
3/
Nhạt thếch đón Tết nơi xóm vắng
Lính ngồi nghiêng ngả chờ qua canh
Sài Gòn đảo chánh đèn tắt ngấm
Chẳng biết nghĩ gì tàn thuốc quăng nhanh!
4/
Giao Thừa ngủ đổ mái hiên
Nhìn ra đồng trống lạ tên xóm làng
Dựa lưng lính gục hai hàng
Nửa đêm mở máy chờ giờ hành quân
5/
Đứng giữa đường đông người phẫn nộ
Tiếng lời chửi mắng, bão giông dâng
Ngán ngẩm nghĩa đồng bào, đồng đạo
Lựu đạn cay, xé mắt, nát lòng..
6/
Vỡ trận xối bom, lửa ngút tràn
Bờ kinh, rạch, suối, oằn mình than
Dân che tay nhỏ ngăn nhà cháy
Quân hai bên đầm đìa máu loang
1965
7/
Đồng Xoài nổ tiếp trận Ba Gia
Đất thấm đẫm máu, nhầy thịt da
Đứa sống, thằng chết nằm lây lất
Có hay không một chốn Người Ta?
1967
8/
Quân về xứ Huế, vượt Sông Bồ
Khô thắt Thạch Hãn, đất cơ khổ
Trăng lạnh Khe Sanh, khốc Cửa Việt
Đọa đày cháy rám nếp da khô
1968
Hình minh hoạ
9/
Mồ cạn, hố nông nơi sân trường
Huyệt đào cạn lấp chật hẻm núi
Vùi, dập oan khiên vạn cảnh thảm
Sống/chết uất hờn không cây hương
10/
Mậu Thân sầm sập xung phong
Lính bần bật chạy chập chùng đạn bay
Đứa nào vừa chết đêm nay?
Gắng qua năm mới cho tròn hai mươi.
1971
11/
Hạ Lào vào dễ đường ra khó
Thịt nhầy, da dính xích xe tăng
Rùng rùng đạn pháo rung mạch đất
Trường Sơn xương trắng, sọ khô phơi
1972
12/
Ôi đau thương thay Hè kinh hoàng
Ba vùng quê hương lửa loang loáng
Rừng, núi, suối, sông, dài vịnh biển
Chập chùng bão loạn cháy phương Nam
Pháo, bom dồn dập sập Cổ Thành
Đạn xuyên vỡ ngực bé Bình Long
Mẹ quê khóc khản đường Quảng Trị
Lão bà ngất gục rừng Xa Cam
Nơi vùng Tây Nguyên sông Pô-kơ
Quân lính hai bên dành nước hố
Nam-Bắc huyết chiến nên một lần
“hòa bình” ký kết kíp phương Tây!
…
Ôi chữ viết có mùi máu rây…
1975
13/
Tôi với Hải Vân buổi tàn cuộc
Đứng giữa đường đèo tim nhói buốt
Nhìn suốt quê hương ôi thảm thương
Quảng Đà-Trị Thiên hồi đổ sụp
Mẹ quê khóc rối môi khô quắp
Con thơ nín bặt không tiếng khóc
Trăm dặm đường xa rời Quảng Trị
Đỉnh đèo ngộp chết, con đi khuất
Hình minh hoạ
14/
Buổi sáng Long Giao mờ hơi sương
Kẻng đánh rền vang giục lên đường
Trên nền đất lạnh, tay che mặt
Đau nhục thấm sâu từng lóng xương
Buổi trưa Long Giao hầm hập nắng
Cành lá đứng im, cây chết lặng
Ngoài đường khắc khoải bóng người thân
Đau nhói trong tim, ngực trũng nặng
Buổi chiều Long Giao ứa máu đỏ
Run rẩy cỏ vàng khô se gió
Tiếng bấc, tiếng chì loa phóng thanh
Vạn gã tù im, ghìm hơi thở
Ban đêm, Long Giao không dạng người
Nghe đủ đau thương từ âm nói
Tội nghiệp, thở dài sâu giấc mơ
Sợ mai sống, chết mỗi ngày tới
1976
15/
Đi đâu?
Người đi đâu?
Bước xuống phà Âu Lâu
Sông Hồng âm âm sóng
Nắng vàng vọt dãi dầu
Đoàn tù nặng bước chậm
Lạc ánh mắt đậm sầu
Mũi súng chăn gờn gợn
Tóc xạm mầu gió bay
Bên kia sông rừng sâu
Đầu nguồn xanh xám đục
Mây mù giăng khói lạnh
Tiếng chim buồn vang xa..
1977
16/
Em đứng trên đồi mây
Sáng Xuân mù rét núi
Đá tai mèo rờn rợn
Buốt giá sắc đường dao
Mong manh tấm áo cũ
Lồ lộ vẻ thanh tân
Xót xa phơi bầu vú
Thanh khiết dạng nữ thần
..
Rực rỡ em như hoa
Tóc màu mây trổi gió
Em chứng thực đọa đầy
Lấm bùn se lá cỏ
Những ngón chân đỏ hồng
Nhức nhối ngày rét đậm
Mười ngón tay căng phồng
Lượm lặt hạt lúa thảm
Nương gặt hết còn đâu
Giúp em qua cơn đói
Đá sắc nhọn giãi dầu
Đất nào nuôi người nổi
…
Em chìm đáy vũng khổ
Từ một ngày 54
1978
Hình minh hoạ: Dikaseve/unsplash
17/
Thương em tuổi độ thanh xuân
Môi khô nín bặt, lạnh tanh tiếng cười
Bó cuốc nặng gãy thân người
Một vùng tóc rối tơi bời cỏ gai
Chân trần, gót nứt, dày chai
Ngực hong gió buốt, tay gầy gân xanh
Cảm thương phận khổ cùng đành
Lặng thinh cắn đọt lá dừa cầm hơi..
1979
18/
Trọng Đông, giá lạnh xói mòn
Rét khô ngọn cỏ, nứt giòn vỏ cây
Lũ tù xếp dọc đường dây
Thân dầm nước đục, tay vầy bùn non
Lầy hôi thối loét vét sâu
Chuyển lên xây đắp “cơ đồ vinh quang”
Qua trưa gió bấc thổi dồn
Cuốn cong phiến lá, bạc đầu tù nhân..
1980
19/
Ôi con xa xót giờ Giao Thừa
Ngoài trời rơi nhỏ hạt sa mưa
Mất cả cuộc đời không đóm lửa
Đón xuân lay động chiếc cùm khua
1981
20/
Bước đằng trước ba bước
Bước đằng sau ba bước
Ngang, dọc hai-mốt gang
Căn phòng chìm ảm đạm
Ta là ai?..
Họ Phan?
Người Nam giam đất Bắc
Đôi lúc chợt bàng hoàng
Phải chăng năm thứ Tám…
1982
21/
Tôi là kẻ chuyên nghiệp viết văn
Giấy bút bị lấy mất
Đêm đen thăm thẳm lạnh căm
Làm thơ trên đầu ngón tay tính nhẩm..
1983
22/
Thanh Minh ra hầm rời Thanh Hóa (*)
Đất trời mang mang ánh sáng lạ
Về đâu?
Về đâu?
Ta đi đâu?
Sừng sững vây quanh dẫy núi đá!!
(*) Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa
1984
23/
Năm hàng song sắt lạnh
Trăng hiu quạnh hắt vào
Lặng lẽ dẫy Thánh Giá
Hằn lên tường thấm Đau.
1985
24/
Chỉ còn Người Jesus
Để cho tôi nói với
Người căng thân Thánh Giá
Tôi ngậm khổ từng giờ.
1986
25/
Trăng chậm rãi dát vàng bên kia núi
Loáng huy hoàng gợn động dãi rừng xanh
Xa sông Mã âm âm rung phới phới
Đêm bao la huyền hoặc ngọc thiên thanh
..
Tận khốn khổ bỗng rung rền thao thức
Người hồi sinh từ vô hạn nhiệm mầu trăng
1987
26/
Tinh mơ vọng tiếng vạc kêu sương
Ta ở đâu đây trên quê hương
Muốn khóc một lần không nên tiếng
Kiên giam lâu thêm hiểu nghĩa đoạn trường
1988
Hình minh hoạ: Eila Lifflander/unsplash
27/
Tôi về Hải Vân thân áo tù
Mười bốn năm dài nhục thấm dư
Nghe lạ đất trời, lạnh vụng biển
Quê nhà còn không, cơn mộng du
Một cuộc máu xương bao kẻ chết
Vinh quang, thắng lợi nào dấu vết
Còn chăng bằn bặt tận khốc âm
Mang mang đất trời một cảnh chết.
1989
28/
Mười bốn năm giấc mộng tàn tan tác
Dài đời người chẳng đủ một Cơn Đau
Rời ngục khổ, bước chân ra không thật
Mong một lần được khóc giữa đêm thâu
1990
29/
Ta về! Hóa ra về không được
Ta đi! Chẳng biết đi tới đâu
Đi, về hai ngã đồng nhau tất
Thôi, cứ đi đi cũng địa cầu
Hãy tạm về đâu trên mặt đất
Cuối cùng chạm tới chỗ Không thôi.
1993
30/
Tôi đi Mỹ cứ như hắt cặn nước
Xuống đất Mỹ tưởng vừa vất tàn thuốc
Quê hương gầm gừ khinh miệt
Đất lạ tròn chốn lưu đày.
Sau 30 năm ở Mỹ
1993-2023