Những năm đầu thập niên 1970, có dịp theo ba tôi đi từ Sài Gòn vô Chợ Lớn dọc theo đường Trần Hưng Đạo, lần đầu tiên tôi bị choáng ngợp bởi con đường đẹp và rộng lớn này. Tuy cũng là “đại lộ”, đường này sang trọng hơn so với đại lộ Võ Tánh hoặc đại lộ Chi Lăng gần nhà tôi ở Phú Nhuận. Đường Trần Hưng Đạo với những hàng cây cao lớn, lề đường rộng rãi và san sát cửa hàng, tiệm quán, khách sạn và buiding to.
Đó là những ngày trước Tết, không khí nô nức đón Xuân trên đường phía Chợ Lớn càng đậm đà với các cửa hàng bán đầu lân, những liễn đối chữ đỏ dán rực rỡ trước các cửa tiệm và những cô gái Hoa trắng mướt bận áo xẩm tản bộ trên lề đường. Ba tôi ghé chợ La Kai mua ít hồng khô, quýt tiều và vịt quay ở khu Đèn Năm Ngọn để ăn Tết. Trên đường về, đi ngang đường Khổng Tử (nay là Hải Thượng Lãn Ông), nghe thơm nức mùi thuốc Bắc. Đó là một chuyến đi đầy ấn tượng của tôi về khu Chợ lớn và con đường cây cao bóng cả này.
Lần giở trang báo cũ, ta thấy có lúc đại lộ Galliéni, tiền thân của đường Trần Hưng Đạo, được gọi là “Đại mã lộ Sài Gòn Chợ Lớn”, có lẽ liên quan đến phương tiện thời đó là xe ngựa. Bài báo đăng Lục Tỉnh Tân Văn số 560, 29 Tháng Chín 1918 cho biết cách đó chục năm (khoảng 1908), thành Sài Gòn còn rất nhỏ hẹp. Từ khi lập chợ mới Bến Thành trên cái ao cũ, cả khu đất Bù-rệt (hiện nay là khu vực chung quanh Công viên 23/9) mở mang từng ngày, có đường quan lộ, khai ngang xẻ dọc, các chủ đất cất phố dựng nhà, từ vũng nước cũ đã thành phồn hoa đô hội.
Đến cuối Tháng Mười Hai 1918, cả khu đất đều có đèn điện. Nhà nước thuộc địa tốn bạc triệu để mở một đường cái lớn nối với đường Boulevard Bonard (nay là Lê Lợi) trước rạp hát Langsa (Nhà hát Thành phố) chạy thẳng vô Chợ Lớn, đặt tên là Galliéni, tên một tướng người Pháp. Ban đầu đã có hơn 300 xe hơi theo đường này mà ra vô Sài Gòn-Chợ Lớn. Bài báo than phiền là chẳng hiểu các “quan bác vật sở Tạo tác” (tạm hiểu là quan chức làm quy hoạch thành phố) có ý kiến thế nào mà xây một nhà ga (ga xe lửa Sài Gòn) trên đường to ấy, làm cho xe phải đi vòng và cảnh đường mất vẻ thanh lịch.
Còn một điều là trước kia hàng hóa ngoại quốc đến Sài Gòn, hoặc gạo từ các nhà máy ở Chợ Lớn, đều không dùng thuyền để vận chuyển mà giao cho xe bò chở vô chuyển ra Chợ Lớn-Sài Gòn bằng đường mé sông Cầu Ông Lãnh. Con đường này vốn hẹp, lại còn bị đường xe lửa nhỏ và vướng nhiều mô cầu cất trên các con rạch, làm cho việc chuyên chở bất tiện.
Nay đường này mở ra cho thiên hạ dùng thì xe bò rùng rùng đi theo ngả đó mà ra vô Sài Gòn-Chợ Lớn vì đường giờ rộng lớn mà lại bằng phẳng. Nhưng nếu để cho xe bò chiếm đường Galliéni thì nguy hiểm cho các chủ xe hơi, vì xe bò chậm lại kềnh càng. Báo đề nghị dinh Xã Tây (chính quyền Sài Gòn) nên làm bờ sông Cầu Ông Lãnh bằng đá núi, đắp thêm ra 10 mét thì việc buôn bán mới đủ thuận tiện, có chỗ mà day trở…
Buổi ban đầu hình thành con đường Trần Hưng Đạo tạo nên một biến chuyển mới cho thành phố Sài Gòn đang còn nhỏ hẹp và lạc hậu. Tuy có hướng phát triển nhưng nhiều vấn đề đã đặt ra cho việc sắp xếp thành phố Sài Gòn đi vào quy củ mà báo chí Việt, dù mới hình thành không bao lâu, đã tham gia đóng góp nhiều ý kiến thiết thực cho chính quyền.
Từ đó, giới làm ăn, những người khá giả ở Sài Gòn có thể vào Chợ Lớn để thưởng thức bao nhiêu thú vui trần thế nhờ vào con đường rộng thênh thang bằng phẳng này đến mãi về sau. Họ vào giải trí trong sòng của vua cờ bạc Sáu Ngọ, vào khu Đại Thế Giới xem cảnh Địa ngục mô hình, nghe các ca sĩ từ Hương Cảng sang hát có nhạc công Phi Luật Tân đánh trống đệm đàn, hay đơn giản là để bài bạc. Chơi chán thì đi đến các nhà hàng trên đường Tổng Đốc Phương ăn món Hoa hoặc tìm vui bên các cô “hối thén” mắt một mí trắng trẻo…
Trong cuốn hồi ký mỏng Nguyễn Bính một vì sao sáng, tác giả Hoàng Tấn kể câu chuyện vui vui trên con đường này, khi chàng thi sĩ giang hồ Nguyễn Bính thời trước năm 1945 vào Sài Gòn theo lời mời làm báo của Hoàng Tấn. Lần đó, Nguyễn Bính cùng ban biên tập được chủ báo tờ Hạnh Phúc là Võ Tuấn Khanh rước lên chiếc xe hơi hiệu Peugeout màu sữa mui trần chở vào Chợ Lớn chiêu đãi một bữa cơm Tàu.
Khi xe bắt đầu vào đường Galliéni, họ Võ cao hứng không lái xe bằng tay mà bằng… chân. Hồi đó xe điện chạy đường đôi, phân ranh giữa hai đường là những cột điện. Thấy ông Võ lái bằng chân lại ngoằn ngoèo luồn lách giữa khoảng cách hai cột điện, ông mã tà người Pháp lóc cóc xe đạp đuổi theo tu huýt inh ỏi, trong khi xe cộ ngược xuôi dạt cả sang hai bên và khách bộ hành vừa kinh hãi vừa thích thú nhìn theo. Hoàng Tấn kể:
“Suýt nữa chúng tôi mang oan vì tính ngông của họ Võ. Khi một cam nhông của Nhật vọt từ đường Nancy (bây giờ là đại lộ Nguyễn Văn Cừ) để sang Nhà Đèn chợ Quán, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi là đâm vào nhau. Mặc cho bọn Nhật la hét: I-nu! Ba ghết đu lô, họ Võ vọt qua giao điểm, tiếp tục tiến vào địa phận Chợ Lớn. Thấy Nguyễn Bính sợ xanh mắt, họ Võ cười: “Thế ra bác chưa đi máy bay bao giờ ư?”.
Những năm ấy, hàng cơm của người Hoa dọc đường bán rất đông khách. Tiệm Kim Sơn vừa mở vài năm lại mở thêm tiệm nữa. Các tiệm phở của người Bắc bán kèm cà phê, cạnh tranh với tiệm dimsum của người Hoa. Lúc đó, phía Chợ Lớn, tại nơi được gọi là đường Thủy Binh, cảnh những người bán hàng rong, cá cảnh, cháo muối… hầu như không thay đổi kể từ đầu thế kỷ. Đến giữa thập niên 1950, phía Sài Gòn, bên cạnh khu nhà lá Sáu Lèo còn có bãi rác khổng lồ trông ra đường Phạm Ngũ Lão. Đường từ Sài Gòn vô Chợ Lớn khi ấy chưa có nhà liền vách như sau này, lưa thưa nhà dân với vườn hoang, đất trống.
Đến 1963, bãi rác biến mất không vết tích, chung quanh tập trung các cửa hàng lớn bán đồ nhập cảng, phụ tùng xe hơi và máy móc các loại. Đến 1963, ai đi qua đại lộ Trần Hưng Đạo ngang khu Nancy đều thấy nhiều nhà hai tầng, ba tầng mọc lên. Các cửa hàng tạp hóa, bán đồng hồ, tiệm hớt tóc, nhà may, tiệm giày, quán ăn, tiệm giải khát, xưởng cưa bán gỗ xẻ, nhà sách, nhà in, nhà thuốc ken dầy, tạo thành một khu trung tâm giữa vùng giáp ranh Sài Gòn và Chợ Lớn. Phía đường Đồng Khánh (nay là đường Trần Hưng Đạo B) bắt đầu có rất nhiều nhà mới mọc lên dọc theo đường.
Là đại lộ chính của Chợ Lớn, các nhà hàng lớn và sang trọng đều tập trung về Trần Hưng Đạo. Trong số thương gia Hoa kiều, có một số khá lớn người mới di cư từ những đô thị lớn của Trung Hoa lục địa nên họ đem theo tất cả lề lối buôn bán ở Thượng Hải, Bắc Kinh… qua “Phố Tàu” của Sài Gòn. Cách bày biện cửa hàng cũng như hàng hóa, cả bảng hiệu quảng cáo, đều được đổi mới. So với khu Khổng Tử (Hải Thượng Lãn Ông) hay Paris (Phùng Hưng) thì khu Đồng Khánh đã tiến rất xa. Nhiều nhà chỉ sửa mặt tiền để trưng bày tủ kiếng hàng hóa nhưng nhiều nhà khác thì xây mới hoàn toàn. Buổi tối đi qua thấy đèn sáng rực rỡ.
Vài năm sau 1975, đi lại đường Trần Hưng Đạo mà thấy buồn hiu vì sự nghèo khó. Đường xá đầy xe đạp dù vẫn còn nhiều cây cao bóng cả. Những năm 1990 và 2000, sự phồn thịnh lại quay về. Tiếng nhạc xập xình từ loa của công ty Nguyễn Kim ở một góc đường như lôi kéo trở lại một thời làm ăn nhộn nhịp. Tôi tiếp tục đi dọc con đường này, mua thiệp Tết trên đường Hải Thượng Lãn Ông, ăn dimsum ở tiệm nước gần bưu điện Chợ lớn và xem múa lân ngày Tết Thượng Nguyên. Những hình ảnh của một Sài Gòn thuở nhỏ và hình bóng người cha thân yêu lại quay trở về.