Thời giữa thập niên 1980, gia đình chúng tôi đến Đức được vài năm, tạp chí Độc Lập và Măng Non (sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ) là những món ăn tinh thần quý giá. Học tiếng Đức thật vất vả, trầy vi, tróc vảy. Bởi thế, chúng tôi thèm thuồng món ăn chữ nghĩa Việt ngon ngọt, vừa quý, vừa hiếm này. Nhận được tờ báo tiếng Việt, chúng tôi đọc từ trang đầu đến trang cuối, không bỏ sót mục nào. Đọc xong, chuyền tay qua anh chị em khác.
Từ thuở bé, tôi ưa ghi ghi, chép chép, không đầu, không đuôi, chỗ này vài câu, chỗ kia đôi dòng. Tôi có vô số tập vở to nhỏ, mỏng dày nhiều loại, để phục vụ những sinh hoạt ngoài học đường. Vào trường trung học Đức, không biết tự lúc nào, năm bảy dòng chữ tiếng Việt của tôi thỉnh thoảng góp mặt trong tập vở học chi chít tiếng Đức, toán, lý, hóa… Nhà trường Đức không có lệ kiểm soát sách vở của học trò. Chứ không, e rằng tôi bị ăn trứng vịt lộn, vì thầy giáo sẽ thắc mắc, tại sao giữa bài làm tóm tắt Die Waage der Baleks của Heinrich Böll, có đoạn viết bằng ngôn ngữ gì thầy chẳng hiểu.
Lên đại học, computer là “đầu tư” quan trọng, để mài dũa, tỉa tót chiếc cần câu miếng cơm trong tương lai. Computer của tôi, to như tủ sắt, lừng lững góc phòng, lúc ấy chỉ biết mỗi chức năng viết chữ. Cái tủ sắt này đã giúp tôi viết các bài thuyết trình trong các hội thảo chuyên ngành, chuẩn bị cho các kỳ thi chứng chỉ cũng như nhận đề tài làm luận án ra trường.
Dùng computer viết truyện cũng giống như lạm dụng của công làm việc tư. Bởi thế, tôi rất kỹ càng, không dám lưu trữ chuyện riêng nhiều, sợ chật máy, sợ rầy rà ảnh hưởng đến “đại sự”. Tôi xài mực in rất chừng… mực. Lúc ấy, các nhu liệu tiếng Việt chưa phổ biến, tôi viết tiếng Việt không dấu, in ra, đánh dấu bằng bút chì. Tất cả công đoạn đều mang tính thủ công. Tôi chưa hề biết đến văn minh email. Viết xong, tôi chạy ra tiệm làm bản sao, bỏ bài viết vào bao thư, ra bưu điện “âu yếm” gởi đến tòa soạn.
“Tác phẩm thủ công” đầu tay của tôi, truyện ngắn “Chó, Mèo, Chim, Cá” đăng trên báo Măng Non ở Tây Đức của nhà văn Ngô Nguyên Dũng. Anh Ngô Nguyên Dũng là chủ bút, chủ nhiệm, tổng thư ký… lo toan mọi việc, từ đầu đến cuối. Tôi ngạc nhiên và thật vui khi nhận được tấm bưu thiếp của anh Ngô Nguyên Dũng. Anh khen truyện “Chó, Mèo, Chim, Cá” dễ thương và ân cần nhắc, nhớ viết tiếp. Ít lâu sau, anh Ngô Nguyên Dũng báo tin phải đình bản tờ báo, mặc dù anh rất yêu chữ nghĩa. Cơm áo hằng ngày đòi hỏi cả tay phải lẫn tay trái của anh (mà có lẽ của rất nhiều người). Anh khuyên tôi, gởi bài vở đến Xóm Măng của Làng Văn.
Tôi không gởi bài đến Xóm Măng, nhưng vẫn “gặp” anh Ngô Nguyên Dũng khi đọc báo Làng Văn. Tôi nhâm nhi những Dòng Chữ Tâm Tình*, ngắm nhìn Mười Hai Hoa Cúc*, làm quen với Cún 1, Cún 2, Kiki, mấy nhân vật dễ thương trong Gia Đình Cún*. Đọc truyện của anh, ngoài những đường xưa lối cũ của Việt Nam, thỉnh thoảng bắt gặp vài địa danh của nước Đức, nhân vật người Đức, tôi có thêm chút tình… đồng hương với tác giả Ngô Nguyên Dũng.
Sau khi báo Văn Nghệ Trẻ đình bản, tôi liên lạc với anh Ngô Nguyên Dũng mỗi năm chỉ một lần, để đặt mua dài hạn báo Làng Văn. Tôi viết ít chữ, báo tin đã chuyển ngân gia hạn báo. Anh Hải, anh cả của tôi, kể, anh và anh Dũng cùng là học trò Pétrus Ký, Sài Gòn. Qua Đức du học, anh tôi theo ngành cơ khí, anh Dũng theo ngành hóa học. Họa hoằn mới gặp nhau. Anh tôi bảo, anh Dũng rất hiền lành.
Năm 2002, anh Ngô Nguyên Dũng đóng vai ông mai, “se duyên” cho tôi với chị Hoàng Nga. Những lúc hai chị em kháo chuyện, tụi tôi nhắc anh Dũng, gọi đùa là Ngô công tử. Mấy năm sau, anh Ngô Nguyên Dũng xuống München chơi. Chúng tôi có buổi hội ngộ thật vui ở nhà chị Hoàng Nga. Anh cười cười dễ dãi, như ông anh lớn, mặc cho mấy đứa em tinh quái trêu chọc. Anh Ngô Nguyên Dũng mang theo máy chụp hình, đạo diễn cho chúng tôi chụp vài tấm gọi là để làm kỷ niệm những ngày quen nhau. Thấy hình chụp chung ba người ngồ ngộ, tôi bèn “vè”:
Hoàng Quân mí lị Hoàng Nga
Quân tả, Nga hữu, giữa là Hoàng Ngô (Nguyên Dũng)
Gặp anh Dũng, tôi thấy anh hiền thiệt, hiền khô, hiền queo. Anh dễ quen, dễ mến. Về sau, những email liên lạc của anh, dẫu chỉ đôi dòng, nhưng gói ghém những đồng cảm, đôi khi là những lời động viên, khích lệ, như của người anh dành cho em nhỏ.
Anh Ngô Nguyên Dũng đọc truyện Hoàng Quân trên Thế Kỷ 21, anh bình phẩm “… phải công nhận rằng Thúy đem những điều nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày để viết ra những mẩu truyện thú vị như vậy. Không phải là chuyện dễ, và ít người làm được…” Những điều nho nhỏ ấy đem đến cho tôi niềm vui nhẹ nhàng.
Năm nay, mùa Hội Chợ Sách Frankfurt, đặc biệt có nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, từ Việt Nam sang Đức, lãnh giải LiBeratur. Ỷ mình nhà sát rạt Frankfurt, tôi gởi chương trình sinh hoạt mùa Hội Chợ Sách, chèo kéo anh Ngô Nguyên Dũng đi cùng. Anh cho biết, rất muốn đi hội chợ. Nhưng anh bận bịu chăm sóc người thân, không thể vắng nhà lâu. Tuy nhiên, anh cố gắng sắp xếp đến dự Họp Mặt Thường Niên của Exil-P.E.N ở Frankfurt vào cuối Tháng Mười.
Anh rủ tôi đến nghe anh đọc truyện trong kỳ họp thường niên. Anh hỏi tôi có muốn vào hội Exil P.E.N. Anh sẽ tìm hiểu thủ tục và sẽ giới thiệu tôi vào hội. Tính tôi ham vui, thích sinh hoạt đoàn thể. Nghe đâu vui, háo hức tìm tới. Tôi vội đánh dấu vào sổ tay, để dành cuối tuần đến dự kỳ họp của Exil P.E.N ở Frankfurt. Anh Dũng gởi cho tôi những thông tin về Exil P.E.N, Hội Văn Bút Lưu Vong, trực thuộc Trung tâm Văn bút Quốc tế.
Điều kiện gia nhập hội là sinh hoạt trong văn chương, có tác phẩm xuất bản, và được hai người viết (thành danh) ở nước Đức giới thiệu. Tôi nhờ anh Phù Vân, chủ bút báo Viên Giác của Đức, giới thiệu. Lúc làm thủ tục, ông tổng thư ký hội cho biết, hai người giới thiệu phải là hai hội viên mới được. Anh Phù Vân không là hội viên. Vì vậy, tôi cần thêm người thứ hai. Một người góp ý ngay: “Tôi sẽ bàn với giáo sư Schlott. Ông ấy sẽ viết giấy giới thiệu cô”. Tôi nghĩ thầm, hân hạnh quá, được ngay ông chủ tịch hội giới thiệu.
Đến phòng họp, mới hay, không chỉ đơn thuần “cho vui” như tôi nghĩ, mà là chốn sinh hoạt của những người có đủ cả tên lẫn tuổi. Có người vừa thơ, văn, và họa. Có người sách đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác. Tôi như con bé học trò tiểu học đi lạc vô khuôn viên đại học văn khoa. Anh Ngô Nguyên Dũng chu đáo dắt tôi đến chào ông chủ tịch hội, giáo sư Schlott và gặp gỡ những hội viên khác.
Hội viên vùng Đông Âu như Nga, Ukraine, Romania, Serbia cũng như vùng Trung Đông chiếm đa số của hội. Anh Ngô Nguyên Dũng là hội viên người Á Châu duy nhất có mặt trong buổi họp thường niên năm nay. Anh Ngô Nguyên Dũng đọc một đoạn trong tiểu thuyết Tausend Jahre im Augenblick (Ngàn Năm trong Khoảnh Khắc). Anh Ngô Nguyên Dũng viết tiểu thuyết này thẳng bằng Đức ngữ. Sách được nhà xuất bản POP-Verlag ấn hành trong năm 2018. Anh kể, anh đã ròng rã “chiến đấu” nhiều năm trời, khi viết cuốn truyện này.
Chủ tịch hội, ông giáo sư Schlott, hỏi tôi: “Cô nghĩ xem, cô sẽ có những đóng góp gì cho hội?” Thật tình, tôi không dè có câu hỏi này, tôi không chuẩn bị tinh thần. May sao, lúc ấy, tôi nhanh trí, tóm tắt những điều tôi đã, đang và vẫn làm, khi ngồi vào bàn viết. “Đến nay, tôi viết bằng tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ của tôi. Những câu chuyện của tôi trình bày, tại sao chúng tôi, những người Việt Nam có mặt ở nước Đức, ở Âu Châu. Chúng tôi làm gì để hội nhập vào xã hội Đức. Chúng tôi có thể làm được gì, để tỏ lòng tri ân với đất nước đã cưu mang, đã cho chúng tôi cuộc sống trong tự do, dân chủ. Thế hệ chúng tôi và thế hệ con cái chúng tôi có khác biệt, mâu thuẫn gì…”
Buổi họp vừa dứt, anh Ngô Nguyên Dũng vội vàng ra về, không kịp dùng bữa cơm tối thân mật với hội. Vì đường xa, chạy xe khuya khoắt, anh rất ngại. Anh đành để tôi thay thế anh, ở lại trò chuyện với những người mới quen, vào tối thứ Bảy và sáng Chủ Nhật.
Khi biết tôi là người Việt, cô Slavica, người Serbian, kể câu chuyện cô được nghe tận tai. Đầu thập niên 1980, cô là y tá bệnh viện ở một tỉnh miền Bắc nước Đức. Trong những lần tàu Cap Anamur đưa thuyền nhân vào bờ, có vài người phải ở lại bệnh viện điều trị vì tình trạng sức khỏe không ổn định. Cô được nghe được nhiều câu chuyện của thuyền nhân. Có câu chuyện gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, đã thúc đẩy cô viết lại trong ngôn ngữ của cô.
Như vậy, câu chuyện thuyền nhân Việt Nam có mặt trong một cuốn sách viết bằng tiếng Serbian những năm đầu thập niên 1990. Trong một chuyến vượt biên từ một vùng biển miền Nam Việt Nam, có một phụ nữ trẻ, cùng người em trai, dắt đứa con nhỏ chuẩn bị ra khơi. Người em xuống tàu trước. Người chị, vì lý do nào đó, bị buộc ở lại, có lẽ do tàu đã quá đông người. Phút cuối, trong tích tắc, người mẹ trẻ quyết định gởi đứa con cho cậu em mang theo. Người mẹ, phút giây ấy, không đủ thì giờ cảm nhận nỗi đau đứt ruột rời xa con mình, cô chỉ kịp thảy đứa con xuống tàu, có người em đưa tay đón cháu.
Thật may mắn, hai cậu cháu đã bình an đến được bến bờ tự do. Câu chuyện của mẹ con, cậu cháu đã gây xúc động tột độ trong lòng cô y tá trẻ người Serbian. Cô Slavica viết một truyện ngắn về câu chuyện này. Bây giờ, mấy chục năm qua, cô kể lại cho tôi nghe, giọng cô vẫn còn xúc động.
Giờ nghỉ giải lao, thêm vài người đến bắt chuyện. Bà Hella gật gù: “Tôi thấy đề tài về những xung đột giữa các thế hệ rất hấp dẫn.” Sẵn có tờ báo (giấy) Viên Giác trong tay, có đăng bài Yêu Lời Mẹ Ru, tôi “khoe” ngay với các ông bà, đây là con trai tôi. Tôi kể sơ câu chuyện con trai học luật, các ông bà tấm tắc, sehr interessant, thú vị quá.
Bà Hehn, bà phó chủ tịch hội, thân ái vỗ nhẹ vai tôi: “Sang năm, họp thường niên, cô phải đóng góp phần đọc truyện đấy nhé. Chúng tôi rất vui, có thêm tiếng nói từ miền Viễn Đông, từ Fernost. Cô nói tiếng Đức giỏi đó. Cô phải dịch truyện của cô sang tiếng Đức nhé.” Như một cô học trò gương mẫu, tôi lễ phép: “Vâng, tôi sẽ cố gắng. Đấy là Hausaufgaben cho tôi vào những tháng tới. Trước đây, tôi đã nhiều lần có ý định dịch truyện mình qua tiếng Đức. Rồi cứ hẹn lần, hẹn lữa. Nhưng lần này, tôi sẽ ghi rõ vào lịch của mình, ngày giờ nộp bài.”
Buổi họp mặt bế mạc, tạm biệt với các vị hội viên, nhiều người nắm chặt tay: “Nhớ nhé! Sang năm gặp nhau ở Tübingen. Chúng tôi muốn nghe những câu chuyện của cô đấy.” Tôi muốn nói, nhưng chỉ dám nghĩ thầm: “Vâng, tôi cũng muốn được các ông bà lắng nghe câu chuyện của tôi.”
Trên con đường từ Măng Non của thế kỷ trước đến Văn Bút Lưu Vong của hôm nay tôi đã có những dấu mốc đặc biệt cho mình, được nhìn những bài vở của mình đăng trên các báo ở Đức, ở Mỹ, Gia Nã Đại. Được cầm trên tay ba tập truyện đã được xuất bản và phát hành.
Năm sau, tôi còn 12 tháng để chuẩn bị kể câu chuyện của mình bằng tiếng Đức.
Hôm nay, tôi muốn kể câu chuyện về Măng Non và Hội Văn Bút Lưu Vong bằng tiếng Việt. Nghe xong chuyện của tôi, có lẽ anh Ngô Nguyên Dũng sẽ nhắc: “Nhớ viết tiếp tiếng Việt và viết thêm tiếng Đức nhé Thúy.” Có lẽ tôi sẽ nhủ thầm: “Đừng dời việc gì qua ngày mai, nếu có thể dời việc ấy qua ngày mốt. Bởi, ngày mai, Thứ Bảy, tôi bận làm cô giáo dạy tiếng Việt cho bầy trẻ nhỏ.”
Ngày mốt, Chủ Nhật, tôi nhất định sẽ khai bút, dịch từ tiếng Việt sang tiếng Đức vài truyện ngắn của Hoàng Quân.
___________________
* Dòng Chữ Tâm Tình, Mười Hai Hoa Cúc, Gia Đình Cún: những tập truyện của Ngô Nguyên Dũng.